Môi trường

Thành Đông xưa và TP Hải Dương nay trị thủy thế nào?

PHẠM QUÝ MÙI 05/06/2024 09:00

Gần 220 năm qua, trải qua nhiều thăng trầm, Thành Đông (TP Hải Dương nay) luôn phải đương đầu trị thủy do cốt đất thấp, nhiều nơi luôn úng ngập cục bộ. Bài toán này vẫn là thách thức đến cả hôm nay.

00:00

hinh-1.-ban-do-thanh-co-hai-duong.jpeg
Bản đồ Hải Dương năm 1925, trong đó có vẽ bản đồ thành cổ Hải Dương (hình lục giác). Nguồn: Thư viện Quốc gia Pháp

Tháng giêng năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long và Trấn thủ Trần Công Hiến đã khai móng xây dựng Thành Đông.

Thành nằm trên một vùng đất cao, án ngữ đường thủy từ biển vào để phòng thủ phía đông kinh thành Thăng Long. Đây là kiểu thành phòng ngự: “thành cao, hào sâu”.

Ngoài thành có hào sâu bao quanh, chu vi 582 trượng 5 thước 4 tấc, rộng 7 trượng 2 thước 5 tấc (gần 30 m). Hào thành có 2 tác dụng là phòng thủ và thoát nước, nối thông với sông Thái Bình. Từ 1804 đến 1889 thành không bị ngập úng. Trong khoảng từ năm 1862 (Nhâm Tuất) đến năm 1865 (Ất Sửu), có lần bị bọn giặc “Thủy phỉ” tiến đánh vây hãm vài tháng mà quân lính trong thành vẫn đủ lương thực, nước ăn uống và tắm giặt.

Năm 1889, Pháp phá Thành Đông, xây dựng Nhà máy rượu, hào thành bị san lấp chỉ còn lại 2 đoạn phía bắc và đông bắc.

Năm 1923, khi mở rộng xây dựng đô thị Hải Dương trên khu vực Đông Kiều phố, do cốt đất thấp nên nhiều lần nơi đây bị ngập úng. Để phòng chống úng, thị xã đã cho xây dựng kè bê tông ngăn nước dọc sông Sặt dài trên 1.000 m, từ đầu phố Tam Giang tới gần Nhà máy Chai. Hệ thống chống úng được bố trí 3 máy bơm tổng công suất khoảng 1.000m3/ giờ, gồm một máy ở đầu phố Tam Giang, một máy ở gần Nhà máy Chai (hai máy bơm này bơm nước chống úng trong thành phố đổ ra sông Sặt) và một máy ở đường Nguyễn Trãi bơm nước đổ ra hào thành thông với khu vực hồ Bình Minh.

Đầu năm 1930, chính quyền thị xã giao cho Nhà máy Rượu sử dụng một số lô đất mới san lấp. Nhà máy này đã bỏ vốn xây dựng hệ thống thoát nước với ống cống có đường kính 1.000 mm dọc theo đoạn tuyến quốc lộ 5 (ngày nay) đi trong thành phố đến phố Đề Lao (đường Nguyễn Trãi) nối với hào thành phía Tây thoát nước ra hồ Bình Minh và chảy ra sông Sặt.

Trong vòng 15 năm (1930-1945) hệ thống thoát nước của thành phố chỉ được xây dựng với chiều dài khoảng 5 km gồm các ống cống bê tông cốt thép đường kính 500 mm đến 1.500 mm.

Trong những trận lụt lớn năm 1939, hoặc đợt mưa gây ngập úng từ 15 đến 18/8/1945, 3 máy bơm trên không đủ chống úng, thành phố phải chịu ngập nhiều ngày. Cuộc biểu tình của quần chúng cách mạng chiều ngày 17/8/1945 diễn ra trong cảnh đường phố ngập nước khá sâu.

Sau ngày 30/10/1954, hòa bình lập lại, dân số thị xã tăng lên trên 30.000 người. Những trường chuyên nghiệp, xí nghiệp, trường học… mở rộng, diện tích đất ở tăng lên, diện tích ao hồ thu hẹp. 3 máy bơm nhỏ không đủ để chống úng. Vào những trận mưa lớn gây ngập úng dài ngày, chính quyền thị xã phải huy động thêm cả guồng nước từ các xã lân cận để chống úng nhưng cũng không giải quyết được nạn úng lụt xảy ra hàng năm.

dji_0074.jpg
Sông Sặt trước khu vực Nhà khách Bạch Đằng bây giờ. Ảnh : THÀNH CHUNG

Trong trận lụt lớn năm 1968 và 1971, khu vực ngã tư đường Nguyễn Văn Tố - Quang Trung nước ngập sâu trên 1m. Vườn hoa Độc Lập ngập sâu gần 1m trong nhiều ngày. Người dân đi lại trong nội thành phải dùng thuyền và bè mảng. Năm 1972, thị xã đã quyết định phá kè bê tông, đắp đê quai dọc sông Sặt (nay là phố Chương Dương và đê nay là đường Bùi Thị Xuân) ra tới Âu thuyền để bảo vệ cánh đồng lúa Phúc Duyên. Xây dựng “ trạm bơm 4 vòi” ( tại đầu phố Bùi Thị Xuân giáp đường Bạch Đằng ngày nay) với tổng công suất 18.000m3/giờ. 4 máy bơm do Nhà máy Chế tạo bơm Hải Dương sản xuất. Hệ thống đê hoàn thành năm 1973 và địa danh trạm bơm 4 vòi tồn tại 30 năm qua đã gắn bó mật thiết, thành tên gọi quen thuộc về một khu vực ở thành phố Hải Dương.

Đến gần năm 2000, thành phố hình thành thêm các khu dân cư Đặng Quốc Trinh, đường Thống Nhất, Xí nghiệp gỗ và khu thương nghiệp phát triển rộng ra cả hai bên đường Bùi Thị Xuân. Các xã ngoại thành, các khu công nghiệp… mở rộng thêm, dân số tăng lên thì trạm bơm 4 vòi cũng bộc lộ nhiều nhược điểm như: máy bơm trục ngang, quản lý vận hành khó khăn, máy móc thiết bị cũ và lạc hậu. Quy hoạch thành phố mở rộng, trạm bơm ở vị trí không bảo đảm vệ sinh môi trường. Khi bơm nước trong thành phố ra, các khu dân cư Đặng Quốc Trinh, Lê Thanh Nghị bị ngập úng, gây ô nhiễm nặng...

Do những bất hợp lý đó, chính quyền thành phố đã quyết định bỏ trạm bơm 4 vòi, xây dựng trạm bơm 5 vòi mới sát bờ sông Thái Bình thuộc địa phận thôn Ngọc Uyên với tổng công suất 40.000 m3/giờ. Trạm bơm mới có máy bơm trục đứng hiện đại, vận hành , điều khiển tự động. Thành phố cũng đào kênh thoát nước đổ bê tông kiên cố cả đáy và hai bên bờ kênh dài 1 km, sâu 3,5 m, rộng 13 m để dẫn nước từ sông Sặt ra trạm bơm. Công trình hoàn thành năm 2003, là công trình đầu tư lớn của thành phố. Trạm bơm 5 vòi đã góp phần khắc phục cơ bản tình trạng ngập úng nhiều giờ trong thành phố.

Những năm gần đây, lượng nước thải các loại trong thành phố tăng vọt. Trong đó, nước thải sinh hoạt trên 50.000m3/ngày đêm; nước thải công nghiệp trên 3.000m3/ngày đêm gây ô nhiễm ngày càng nặng. Từ năm 2008 đến nay, thành phố không ngừng đầu tư, nâng cấp hệ thống thoát nước. Các phố trung tâm như: Phạm Ngũ Lão, Tuy Hòa, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Quang Trung, ngã tư Đông Thị... do cốt đất thấp mỗi khi có mưa lớn thường ngập úng nhiều giờ, nay đã tiêu thoát nhanh hơn.

Năm 2008, địa giới hành chính thành phố được mở rộng thêm làm diện tích tăng lên 71,4 km2. Hệ thống giao thông phát triển nhanh nhưng hệ thống thoát nước trên các tuyến đường không theo kịp, mỗi khi có mưa lớn lại bị ngập úng kéo dài. Nguyên nhân chính là do các khu vực này mặt bằng rộng, cốt đất thấp, hệ thống thoát nước chưa đồng bộ, nước không thể tiêu thoát tự nhiên, phải bơm qua các trạm bơm tiêu úng nên nước rút chậm .

Năm 2019, thành phố lên đô thị loại I, sáp nhập thêm một số xã từ các địa phương lân cận làm thành phố tăng lên 17 phường, 9 xã , diện tích tăng lên 111,22 km2 . Các xã mới nhập vào thành phố đã có hệ thống máy bơm và kênh mương tưới tiêu cùng hệ thống ao hồ điều hòa tương đối hợp lý. Tuy nhiên do ảnh hưởng của cơn bão số 3, ngày 26/8/2022, mưa lớn nhiều giờ đã gây ngập úng diện rộng tại khu nội thành cũ và các khu dân cư tại phường Thanh Bình , Tứ Minh, Ngọc Châu, Bình Hàn... Nguyên nhân chính vẫn là do hệ thống cống tiêu thoát nước không đồng bộ, không đủ sức tiêu thoát nhanh kịp thời .

Năm 2022 , thành phố cho phường Ngọc Châu cải tạo hệ thống tiêu thoát nước phía nam đường 5 đặt hệ thống cống lớn cao 1,8 m, rộng 2 m nhưng nội thành vẫn còn rất nhiều khu vực có cốt đất thấp như dọc theo tuyến từ Tứ Minh, Thanh Bình... hoặc độ nghiêng, dốc ít nên việc tiêu thoát nước còn khó khăn. Các tuyến phố cũ như: Quang Trung, Bắc Sơn,Nguyễn Văn Tố ... qua nhiều thời gian không được tôn tạo, nâng cấp nên đến nay vẫn ở độ trũng nhất thành phố...

Mỗi trận mưa lớn, nhiều đường phố, ngõ xóm vẫn bị ngập, dù có nơi kéo dài, có nơi nhanh chóng. Điều đó cho thấy, gần 220 năm sau khi thành lập, Thành Đông vẫn phải kiên trì việc "trị thủy". Bài toán chấm dứt úng ngập sau những trận mưa lớn kéo dài nhiều giờ trong điều kiện nhiều ao, hồ điều hoà đã bị san lấp vẫn luôn là thách thức với chính quyền TP Hải Dương.

Không gian đô thị được mở rộng dẫn đến những bất cập trong kết nối hạ tầng kỹ thuật, nhất là hệ thống tiêu thoát nước, chống ngập úng. Khu vực phía tây TP Hải Dương và phía bắc đường sắt là “rốn ngập” của thành phố. Để giải quyết thực trạng này, TP Hải Dương đã triển khai thi công nhiều hạng mục, công trình chống úng. Tiêu biểu là Dự án Phát triển tổng hợp các đô thị động lực với 9 gói thầu. Dự án này hoàn thành và đưa vào sử dụng sẽ góp phần hạn chế tình trạng ngập úng khi có mưa lớn tại khu phía tây thành phố. Dù mới chỉ hoàn thành 2 gói thầu nhưng sau một số trận mưa lớn vừa qua, khu vực đường Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Thị Duệ, Nguyễn Qúy Tân, Vũ Hựu… đã không còn tình trạng ngập úng kéo dài.

PHẠM QUÝ MÙI
(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Thành Đông xưa và TP Hải Dương nay trị thủy thế nào?