Ngày 7.8, tại Hà Nội, Tổng cục Thống kê tổ chức Hội nghị Cải thiện năng suất lao động (NSLĐ) quốc gia, với sự tham dự của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Tại hội nghị, Thủ tướng đã định hướng và đưa ra nhiều giải pháp để tăng NSLĐ quốc gia, trong đó có các nhóm giải pháp về: cải cách thể chế; tạo điều kiện để người lao động và doanh nghiệp phát huy tối đa năng lực và yêu cầu; ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học công nghệ...
Theo Tổng cục Thống kê sau hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, đến nay nền kinh tế vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và còn khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt, để tránh nguy cơ tụt hậu và vượt qua bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tập trung chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, trong đó trọng tâm là cải thiện NSLĐ để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Cải thiện năng suất lao động sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và góp phần nâng sức cạnh tranh cho nền kinh tế
- Định hướng thúc đẩy tăng NSLĐ
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, NSLĐ của Việt Nam hiện nay thấp hơn so với các nước vì có xuất phát điểm thấp. Tuy vậy, tiềm lực trong mỗi người dân còn rất lớn. Thủ tướng cũng chỉ ra nguyên nhân khiến NSLĐ của Việt Nam chưa cao, một phần vì các điểm nghẽn về thể chế kinh tế. Trình độ, kỹ năng nguồn nhân lực còn thấp. Thiếu nhân lực kỹ năng cao, đặc biệt là kỹ năng mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nền kinh tế số. Động cơ sáng tạo đổi mới còn thiếu và yếu.
Từ đó, Thủ tướng nêu các định hướng lớn để thúc đẩy tăng NSLĐ. Trước tiên là cải cách thể chế, nâng cao năng lực quản trị nhà nước, năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cấp chất lượng môi trường kinh doanh, xây dựng cơ chế để mọi lao động được trao cơ hội, qua đó có thể phát huy tối đa năng lực của mình.
Bên cạnh đó, cần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ lao động giản đơn sang lao động có kỹ năng; cải cách mạnh mẽ và nhanh hơn nữa khu vực doanh nghiệp nhà nước để khơi thông và giải phóng các nguồn lực cho phát triển, thúc đẩy, hỗ trợ khu vực tư nhân và các khu vực khác như hợp tác xã trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đặc biệt là khuyến khích tinh thần khởi nghiệp sáng tạo.
Đồng thời, tiếp tục thu hút FDI một cách có chọn lựa, ưu tiên các dự án sử dụng nguồn lực chất lượng cao để cùng với khu vực kinh tế trong nước nâng cấp nền sản xuất, tăng năng suất chung của nền kinh tế; tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, tham gia vào các dòng chảy thương mại và đầu tư quốc tế, các chuỗi giá trị toàn cầu, biến các dòng chảy đó trở thành lực đẩy cho các cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất quốc gia.
- Phát huy tối đa năng lực và yêu cầu của người lao động và doanh nghiệp
Để cải thiện NSLĐ ở Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đưa ra 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm. Bao gồm:
Thúc đẩy cải cách mạnh mẽ hơn nữa các nền tảng về thể chế;
Tập trung cải thiện tính hiệu quả của thị trường lao động, bảo đảm mọi người dân và doanh nghiệp có thể tham gia thị trường lao động qua đó phát huy được tối đa năng lực và yêu cầu của mình;
Thiết lập một cơ chế khuyến khích đủ mạnh để thu hút những người tài năng, các chuyên gia giỏi, các nhà quản lý xuất sắc, bao gồm người Việt Nam trong nước và các tài năng Việt Nam đang ở nước ngoài;
Xây dựng một cơ chế cán bộ mở trong các cơ quan nhà nước để thu hút người giỏi vào bộ máy nhà nước, đồng thời tạo dựng môi trường làm việc cùng với cơ chế cạnh tranh để chọn lọc và thúc đẩy những người tài năng;
Phổ cập và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, trong đó ưu tiên đào tạo các tài năng cá biệt và các kỹ năng mới nổi;
Ưu tiên đầu tư vào ứng dụng KHCN.
- Chính phủ luôn đồng hành và mong muốn cộng đồng cùng quyết liệt thực hiện
Tại Hội nghị, Thủ tướng cho biết, nâng cao NSLĐ là nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chung tay của các cấp các ngành, của toàn xã hội đặc biệt là vai trò tiên của cả cộng đồng doanh nghiệp doanh nhân, đội ngũ các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý. Đi liền với đó là huy động kết nối nguồn lực trong và ngoài nước trên nền tảng giá trị văn hóa con người Việt Nam gắn với tri thức và khoa học công nghệ.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chính thức phát động phong trào NSLĐ quốc gia và khẳng định, Chính phủ sẽ luôn đồng hành và mong muốn cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, nhà đầu tư và các tầng lớp hãy nỗ lực, cố gắng hơn nữa, chủ động tham gia, tích cực thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp để tăng NSLĐ, kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, cùng nhau tạo nên một cuộc bứt phá mới trong NSLĐ để đưa đất nước Việt Nam vượt lên, phát triển nhanh và bền vững.
Thực trạng NSLĐ Việt Nam
- Tăng đều nhưng vẫn ở mức thấp
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, thời gian qua, NSLĐ của Việt Nam tiếp tục cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN.
Cụ thể, NSLĐ toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.521 USD/lao động); tính theo giá so sánh, tăng 6% so với năm 2017. Bình quân giai đoạn 2016-2018, NSLĐ tăng 5,77%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015. Tính chung giai đoạn 2011-2018, NSLĐ tăng bình quân 4,88%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của nhiều nước trong khu vực.
Nhờ đó, Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Nếu năm 2011, NSLĐ của Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia lần lượt gấp NSLĐ của Việt Nam 17,6 lần, 6,3 lần, 2,9 lần và 2,4 lần, thì đến năm 2018 khoảng cách tương đối này giảm xuống tương ứng còn 13,7 lần, 5,3 lần, 2,7 lần và 2,2 lần. Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực,
- Khoảng cách chênh lệch tuyệt đối tăng
Dù sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản có tốc độ tăng NSLĐ bình quân cao nhất, đạt 5,2%/năm giai đoạn 2011-2018 nhưng khu vực này hiện vẫn có mức NSLĐ thấp nhất trong các khu vực kinh tế, năm 2018 đạt 39,8 triệu đồng/lao động, chỉ bằng 38,9% NSLĐ của toàn nền kinh tế.
Trong khi đó, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế về quy mô nhưng NSLĐ của khu vực này chưa thể hiện rõ vai trò chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng nhanh. Năm 2018, NSLĐ của khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 131 triệu đồng/lao động, gấp 1,3 lần NSLĐ chung. NSLĐ bình quân của khu vực này giai đoạn 2011-2018 tăng 3%/năm.
Khu vực dịch vụ có mức NSLĐ năm 2018 ước đạt 118,1 triệu đồng/lao động, gấp 1,2 lần NSLĐ chung. Tốc độ tăng NSLĐ bình quân giai đoạn 2011-2018 đạt 3,1%/năm. Trong đó, ngành bán buôn, bán lẻ và ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống là những ngành chiếm tỷ trọng lớn nhưng có mức NSLĐ lần lượt là 82,3 triệu đồng/lao động và 76,1 triệu đồng/lao động, chỉ bằng 80,5% và 74,4% mức NSLĐ chung của nền kinh tế và ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực.
- Khoảng cách NSLĐ giữa các loại hình doanh nghiệp lớn
NSLĐ của doanh nghiệp là yếu tố có ý nghĩa quyết định tới tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Theo thống kê, năm 2017, NSLĐ chung của toàn bộ khu vực doanh nghiệp đạt 298,7 triệu đồng/lao động, gấp 3,2 lần mức NSLĐ chung cả nước. Trong đó, NSLĐ doanh nghiệp nhà nước đạt mức cao - 678,1 triệu đồng/lao động, gấp 7,3 lần mức NSLĐ chung cả nước; NSLĐ của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 330,8 triệu đồng/lao động, gấp 3,5 lần; NSLĐ của doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt thấp nhất - 228,4 triệu đồng/lao động, gấp 2,5 lần mức NSLĐ chung của cả nước;
Chiếm tới 96,7% tổng số doanh nghiệp của cả nước nên NSLĐ của doanh nghiệp ngoài nhà nước ở mức thấp đã ảnh hưởng nhiều đến NSLĐ chung của toàn bộ khu vực doanh nghiệp.
Theo Phân tích của Tổng cục Thống kê, các yếu tố ảnh hưởng đến tăng năng suất lao động ở Việt Nam là quy mô nền kinh tế còn nhỏ; quá trình dịch chuyển cơ cấu lao động theo hướng tích cực nhưng còn chậm; máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu; chất lượng nguồn nhân lực hạn chế; trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn bất cập; khu vực doanh nghiệp chưa thực sự là động lực quyết định tăng trưởng năng suất lao động của nền kinh tế