Để hỗ trợ, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Chính phủ cần tiếp tục xem xét cho giãn, hoãn các khoản thu, đồng thời cần có chính sách “bơm” vốn...
Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ vừa thực hiện cuộc khảo sát với gần 400 doanh nghiệp (DN) và 15 hiệp hội nhằm nhận diện rõ hơn những khó khăn khi dịch Covid-19 bùng phát lần hai. Qua khảo sát cho thấy, 20% số DN phải dừng hoạt động, 76% số DN không cân đối được thu chi và 2% số DN đã giải thể, chỉ có 2% số DN tạm thời chưa bị ảnh hưởng do đại dịch.
Những khó khăn lớn nhất mà DN gặp phải hiện nay là không có khách hàng, đơn hàng, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Trong khi DN phải chịu áp lực để bảo đảm tiền lương, trả bảo hiểm xã hội và các chi phí khác cho người lao động, trả tiền vay ngân hàng, lãi và nợ gốc, các chi phí đầu vào như điện, nước, nguyên liệu, thuê kho, nhà xưởng...
Theo các chuyên gia kinh tế, trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát, nhiều DN đã “giảm sức đề kháng” và rất nhiều công ty đã không “cầm cự” ngay từ đợt dịch bùng phát đầu tiên. Chính vì thế, để hỗ trợ DN giữ vững, ổn định, Chính phủ cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ về tín dụng (cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ), chính sách thuế (gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất); chính sách về bảo hiểm xã hội, hỗ trợ người lao động... phần nào giúp DN vượt qua giai đoạn khó khăn nhất.
Những chính sách của Chính phủ được đánh giá rất kịp thời, nhưng trong quá trình tiếp cận, nhiều DN đã gặp khó khăn khi phải thực hiện rất nhiều yêu cầu thủ tục để tiếp cận gói hỗ trợ. Theo đó, có rất ít DN tiếp cận được sự hỗ trợ này dù Chính phủ đã rất quyết liệt trong chỉ đạo, nhưng sự quyết liệt đó không được duy trì xuống các cấp, các ngành và địa phương.
Trong khi DN còn đang loay hoay tiếp cận chính sách hỗ trợ, chưa kịp hồi phục, đợt dịch Covid-19 lần thứ hai cũng đã làm cho các doanh nghiệp lâm vào cảnh khó khăn hơn. Do dịch bệnh, sức cầu trên thị trường giảm sâu, đồng thời kế hoạch đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh cũng thay đổi, không còn như trước. Ngoài hạ lãi suất ngân hàng, khoanh nợ cho DN, giảm thuế... việc hỗ trợ DN trong thời điểm này một lần nữa tiếp tục cần được Chính phủ đưa ra xem xét như một vấn đề cấp bách chứ không thể đợi DN đổ vỡ, phá sản rồi mới tính toán đến phương án hỗ trợ.
Chính phủ cũng cần tiếp tục xem xét cho giãn, hoãn các khoản thu, đồng thời cần có chính sách “bơm” vốn… Đặc biệt, để nâng cao hiệu quả các chính sách và chương trình hỗ trợ DN, Chính phủ cần giải quyết "nút thắt" trong khâu thực thi tại cơ sở từ những vướng mắc của chính sách hỗ trợ đợt 1 để DN có đủ sức phục hồi khi nguồn lực đã gần như cạn kiệt.
Ngược lại, đây cũng là lúc mà đội ngũ DN, doanh nhân cần tập trung mọi nguồn lực để vượt qua khó khăn, giữ vững DN. DN cần tận dụng thị trường gần 100 triệu dân trong nước qua việc tập trung kích cầu tiêu dùng, khuyến mãi, giảm giá bán, tổ chức tốt việc đưa hàng hóa, dịch vụ đến các khu dân cư, khu công nghiệp, vùng nông thôn… DN cần tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển mạnh thương mại điện tử và các mô hình kinh doanh mới nhằm tranh thủ sức mua của thị trường để tăng lưu thông hàng hóa, gia tăng năng lực cạnh tranh cũng như nội lực trong dài hạn. Phát huy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết, chia sẻ khó khăn, hỗ trợ các DN khác cùng nhau ứng phó, vượt qua thách thức, khó khăn.
Song song với đó, DN cần tận dụng các cơ hội có thể, nhất là từ các hiệp định FTA để đẩy mạnh xuất khẩu, tìm kiếm đối tác; tìm các giải pháp, hướng đi mạnh dạn, đột phá, sáng tạo… để có thể phục hồi sản xuất.
MINH THUYẾT