Dù làng quê giờ đã khác xưa, nhà tôi cũng khác rồi nhưng những bài học đầu đời của mẹ cùng căn nhà “chị Dậu” của tôi ở quê vẫn là cái nôi ấm cúng nhất, bình yên nhất của cuộc đời tôi.
Xã Quốc Tuấn (Nam Sách), quê hương nhà thơ Trần Đăng Khoa ngày nay. Ảnh: CHUNG THÀNH
Tết con mèo năm nay, tôi về ăn Tết ở quê. Hải Dương bây giờ đã là một thành phố sầm uất, khang trang, bề thế mà vẫn trong lành. Các món ăn rất ngon và rẻ. Làng quê tôi cũng khác. Nó có dáng vẻ của một thành phố. Nhà tôi cũng khác rồi. Giữa nhà mà lại nhớ nhà. Nhớ căn nhà xưa. Chưa xa đâu mà lại có gì như là rất xa.
Nhà của những gia đình nông dân đồng bằng Bắc Bộ thường rất giống nhau. Dù tường đất mái gianh, hay tường xây mái ngói, hoặc nhà bê tông mái bằng thì cũng thường chỉ có ba gian. Trong ba gian nhà ấy, gian giữa là quan trọng nhất. Đó là gian thờ tổ tiên, cũng là gian dùng để đối ngoại. Tất cả những gì sang trọng nhất của gia đình đều được "trưng" ra ở đây. Bảng gia đình vẻ vang, bằng Tổ quốc ghi công, huân chương, kỷ niệm chương, giấy khen, bằng khen, rồi hoành phi, câu đối, tủ chè, tủ gương... Còn đời sống thực của cả gia đình lại chìm khuất ở gian bên. Đó là gian buồng quanh năm tối mò. Ở đấy lỉnh kỉnh những âu muối, lọ mắm, rồi chum khoai, vại gạo, rồi những tấm áo tã, vắt trên cây sào treo bên tường. Mùi ẩm mốc. Mùi cứt chuột, phân mèo. Mùi của trăm thứ lưu cữu bà rằn. Chịu không thể phân biệt được một cách rạch ròi. Chỉ biết nó là mùi của sự thật. Mùi cuộc sống đích thực của gia đình. Căn nhà tôi cũng vậy. Thuở xưa là ba gian nhà mái rạ. Nó cũng hao hao như nhà anh Pha, chị Dậu. Năm 1972, bố mẹ tôi mới dựng được thành nhà ngói ba gian. Căn nhà không có móng, chỉ xây bằng mỗi một bao xi măng trộn với vôi cát. Vậy mà không hiểu sao, nó vẫn tồn tại được đến bây giờ.
Ngày xưa, khi tôi còn là một cậu bé, những ngày cuối năm áp Tết rậm rịch lắm. Cả nhà chuẩn bị lá dong, gạo nếp trước đó đến mấy ngày. Rồi gói bánh, luộc bánh, thức suốt đêm, chờ ăn miếng bánh chưng đầu tiên. Giây phút ấy sướng lắm. Người bận nhất nhà vào dịp Tết là mẹ tôi. Ngày cuối năm, mẹ tôi thường pha một thùng nước vôi, buộc ngọn chổi rơm gọn lại, rồi bảo tôi ra quét vào các gốc cây. Tôi rất ngạc nhiên. Mẹ tôi bảo: “Để sắm áo mới cho cây cối. Ngày Tết, mình có áo mới, thì cây cối nó cũng phải được mặc áo mới chứ!”. Thế là tôi ra vườn, lọ mọ quét nước vôi lên từng gốc cây. Sáng mồng một, đúng ngày đầu năm mới, nước vôi đã khô, cả khu vườn nhà tôi sáng rực lên, tưng bừng trong màu trắng đồng phục của cây cối. Bữa cỗ tân xuân, mẹ tôi cũng lại xẻ thức ăn ra, chia làm nhiều phần, phần nào cũng có đầy đủ các món xôi, chè, thịt, miến, dưa hành... rồi bảo tôi cho gà, lợn, chó, mèo cùng ăn. Người ăn món gì thì những con vật nuôi trong nhà cũng được ăn những món ấy. Mẹ tôi bảo: “Mình có Tết, chúng nó cũng phải có Tết chứ!”. Một tối, mẹ tôi bảo tôi mang đèn ra vườn hái trầu, nhớ vặn to ngọn đèn, để cây trầu nhận ra chủ, không phải là kẻ trộm. Trước khi hái, phải nói: "Trẩu trẩu trầu trầu. Mày làm chúa tao. Tao làm chúa mày. Tao không hái ngày. Thì tao hái đêm. Tỉnh dậy cho tao hái". Mẹ tôi bảo, ngày xưa, mẹ tôi hái trầu đêm, bà tôi cũng dặn thế. Không nói như vậy, giàn trầu sẽ lụi. Tôi chẳng biết đấy có phải là câu ca dao không, hay chỉ là mấy câu vè mẹ tôi chợt nghĩ ra để dạy tôi. Tôi không chỉ nhắc lại mẹ dạy, mà còn “nới thêm” bằng chính lời của mình: “Đã ngủ rồi hả trầu? Tao đã đi ngủ đâu. Mà trầu mày đã ngủ. Bà tao vừa đến đó. Muốn xin mấy lá trầu. Tao không phải ai đâu. Đánh thức mày để hái. Trầu ơi hãy tỉnh lại. Mở mắt xanh ra nào. Lá nào muốn cho tao. Thì mày chìa ra nhé. Tay tao hái rất nhẹ. Không làm mày đau đâu. Đã dậy chưa hả trầu? Tao hái vài lá nhé. Cho bà và cho mẹ. Đừng lụi đi trầu ơi!”. Khi bà ngoại tôi mất, mẹ tôi xé chiếc khăn tang ra thành hàng trăm mảnh nhỏ: "Con hãy ra đeo tang cho cây cối đi, không cây nó buồn, nó chết đấy. Bà mất rồi. Con thấy cây cối nó có buồn không?". Thế là tôi lại ra vườn, lụi cụi đeo tang cho từng cây trầu, cây cau, cây na... Cả khu vườn nhà tôi trắng xóa màu tang. Trong mắt tôi, cây cối, trâu bò, gà lợn, chó mèo cũng có niềm vui, nỗi buồn như những con người. Tình cảm ấy, tôi tiếp nhận được từ mẹ. Tiếp nhận rất tự nhiên và nói ra trong những bài thơ đầu đời của mình cũng rất tự nhiên. Lúc ấy, tôi hoàn toàn không biết đó là thủ pháp nhân hóa ở trong nghệ thuật. Mẹ tôi không biết gì về nghệ thuật. Bà cũng không có ý định dạy tôi làm nghệ thuật. Bà càng không muốn tôi đi theo nghiệp chữ nghĩa. Vì theo bà, cái nghề ấy nó bạc. Bà chỉ muốn tôi thành một người tử tế. Đơn giản thế thôi. Mãi đến sau này, tôi mới hiểu mẹ tôi. Đó là khi các anh chị tôi có con. Mẹ tôi dặn: “Chúng mày phải dạy trẻ con yêu thiên nhiên, yêu cây cối và các con vật trong nhà. Một đứa trẻ bẻ ngọn cây non mới trồng, bắn chết con chim đang bay, hay phang gẫy chân con gà, con chó thì rồi sau này lớn lên, chúng nó cũng sẽ làm điều ác đối với con người...”. Bà còn dặn: “Chúng mày phải để ý đến đứa con đầu. Đứa đầu mà tử tế, thì những đứa sau cũng sẽ tử tế. Đứa đầu mà hư hỏng thì hư hỏng hết đấy".
Mấy chục năm qua rồi, bây giờ tôi cũng đã già, già như mẹ tôi ngày xưa. Những bài học đầu đời của mẹ cùng căn nhà “chị Dậu” của tôi ở quê vẫn là cái nôi ấm cúng nhất, bình yên nhất của cuộc đời tôi.
Mấy chục năm nay, tôi sống ở thành phố. Anh ruột tôi thì từ năm 1962, khi tôi 4 tuổi, ông đã chuyển về ở thành phố mỏ Hòn Gai (Quảng Ninh), em gái tôi và các cháu, chắt của bố mẹ tôi cũng theo nhau về thành phố. Bố mẹ tôi vẫn ở quê trong căn nhà xưa. Con cháu chèo kéo thế nào, cụ cũng không rời quê. Cụ bảo: “Tao sinh ra ở đây, thì sống ở đây và chết ở đây thôi. Tao không thể bỏ chó mèo và cây vườn mà đi được…”. Chúng tôi không thể ở quê được, nên bà chị tôi phải trụ lại quê để thay mấy anh em chăm sóc bố mẹ già. Cụ vẫn sống như thời chị Dậu, anh Pha. Ai bất chợt ghé thăm gia đình tôi ở quê, chứng kiến mẹ tôi sống, sẽ kết tội tôi với ông anh cả tôi, nhà thơ Trần Nhuận Minh tệ bạc với mẹ. Các con đứa nào cũng nhà cao cửa rộng ở thành phố mà đọa đầy mẹ như vậy. Trông bộ ấm chén uống nước hằng ngày cũng đã kinh. Sứt vòi, mẻ miệng, mỗi cái một kích cỡ. Cóc cáy, nhếch nhác. Bác Minh đã thay cho bà bộ ấm chén Nhật, bát đĩa gốm sứ Minh Long, cả cái mâm nhôm sáng loáng. Mâm bà dùng là mâm gỗ sứt sẹo được chia từ hồi cải cách ruộng đất. Bác Minh và tôi vứt hết ra bờ tre. Nhưng khi con cháu đi rồi, bà cất hết bát đũa, ấm chén, mâm chậu sắm mới vào tủ, rồi ra bờ tre nhặt lại những vật dụng cũ về dùng. Đối với bà, đấy không phải những vật dụng vô tri vô giác, chúng là bầu bạn thuỷ chung, gắn bó với bà từ thời đói khổ.
Mẹ tôi trút hơi thở cuối cùng vào 8 giờ 43 ngày 13 Tết năm 2020, thọ 102 tuổi.
Hồi bố mẹ còn sống, tháng nào tôi cũng về, rồi Tết nào cũng về. Có lần, chiều 29 Tết tôi về, thấy cây cối trong khu vườn nhà tôi đã trắng xóa một màu đồng phục Tết như năm nảo năm nào. Tôi ngạc nhiên quá, vì nhà tôi không còn trẻ con nữa. Mẹ tôi cười: "Mẹ quét hôm qua đấy. Quét thế cho cái vườn nó ấm. Như các con vẫn còn bé tí, vẫn lăng xăng ríu rít ở nhà".
TRẦN ĐĂNG KHOA