Chúng tôi ngồi rất lâu bên bóng mát của rừng cây, núi đá. Bây giờ yên lặng rồi, yên lặng rất lâu rồi cả cái đại thảm họa không thể hình dung nổi ấy.
Đền thờ Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi tại Chí Linh
Dự định nhiều lần, trong chuyến ra Bắc lần này tôi mới về được Côn Sơn thăm nhà của Nguyễn Trãi. Buổi sáng những ngày đầu thu mát mẻ. Đường Côn Sơn quanh co khuất khúc. Hơi cây, hơi rừng lành lạnh. Chúng tôi leo từng bậc đá đã được thế hệ hậu sinh xây dựng nên đền thờ cụ. Bên trái là đền thờ quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Triều Trần tới hồi suy vi. Quan Đại Tư đồ là rường cột triều đình nhưng cũng không gượng đỡ nổi. Cụ từ quan lui về động Thanh Hư trên núi Côn Sơn. Nhưng cũng chính từ tấm lòng độ lượng bao dung của quan Tư đồ dòng dõi Tướng quốc Thái sư Trần Quang Khải đã chắp cánh cho một mối tình tuyệt đẹp giữa đôi trai tài gái sắc Nguyễn Ứng Long - Trần Thị Thái và cho ra đời một con người vĩ đại - Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi.
Dòng suối Côn Sơn trong veo tuôn chảy. Có lẽ sáu trăm năm trước suối vẫn chảy như thế này:
Côn Sơn hữu tuyền
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích
Ngô dĩ vi đạm tịch
(Côn Sơn có khe
Tiếng nước chảy rì rầm
Ta lấy làm đàn cầm
Côn Sơn có đá
Mưa xối rêu xanh đậm
Ta lấy làm chiếu thảm)
Chúng tôi tha thẩn bên bờ suối đá. Tôi vốc từng vốc nước trong vắt lên rửa mặt cơ hồ cảm nhận được cái thanh khiết của ngàn xưa còn truyền lại. Từ hồi bốn, năm tuổi, cậu bé Trãi theo ông ngoại về động Thanh Hư, con suối này đã tắm mát tâm hồn cậu ngay từ thuở thiếu thời. Sau này, ngoài những năm vào Lam Sơn kháng chiến gian khổ, một vài năm làm quan ở chốn kinh thành, Côn Sơn gắn bó với phần lớn cuộc đời Nguyễn Trãi:
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên;
Qui lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ;
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
…
Hà thì kết ốc vân phong hạ;
Cấp giản phanh trà chẫm thạch miên
(Từ khi đi khỏi núi nhà vừa mười năm
Trở về thì tùng cúc đã nửa hoang rậm
Có hẹn với rừng suối sao ta nỡ phụ
Cúi đầu nơi đất bụi chỉ tự thương mình
…
Bao giờ được làm nhà dưới ngọn núi mây
Được múc nước khe nấu chè (trà) và gối đá ngủ)
Sau mười năm kháng chiến gian khổ, lúc này còn bao nhiêu công việc bề bộn trước mắt, lo kiến quốc, xây dựng bộ máy cầm quyền và tất nhiên với công lao vĩ đại của mình ông sẽ được thăng thưởng hưởng chút phú quý vinh hoa như mọi người có công lao khác, sao ngay lúc đó Nguyễn Trãi đã ước được lui về chốn rừng suối xưa?
Hương phù ngõa đỉnh phong sinh thụ
Nguyệt chiếu đài ky trúc mãn lâm
Tẩy tận trầm khâm hoa ngoại mính
Hoán hồi ngọ mộng chẩm biên cầm
Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ
Nhân dữ bạch vân thủy hữu tâm?
(Hương bốc ở đỉnh sành trên cây gió sinh. Trăng soi trên ghềnh rêu, đầy rừng trúc mọc. Để rửa sạch lòng trần, có chè (trà) ngoài hoa. Để gọi tỉnh mộng buổi trưa có chim bên gối. Ngày dài tựa ghế quên cả nói. Người với mây trắng, ai là có tâm tình?).
Núi Côn Sơn không cao nhưng thanh khiết, trăng ngàn, gió trúc, cây đá phong rêu là nơi di dưỡng những tâm hồn thanh tịnh.
Phù tục thăng trầm ngũ thập niên
Cố sơn, tuyền thạch phụ tình duyên
(Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm
Đành phụ tình duyên với khe và đá của núi cũ)
Nhưng Nguyễn Trãi về Côn Sơn mà không phải là ở ẩn. Tấm lòng ông vẫn canh cánh vì lẽ “chăn dân”. Ông đã từng mơ ước: “Làm sao cho khắp thôn cùng, xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu”. Ông tham gia cuộc kháng chiến mười năm gian khổ cũng chính là cái mong ước ấy. Về Côn Sơn rồi mà ông vẫn đau đáu: “Nhất tâm báo quốc thượng hoàn hoàn. Tiểu cấu mão đình thả tự khoan” (Một lòng báo quốc vẫn còn hăng hái. Dựng nhà tranh nhỏ để tự khuây lòng).
Chúng tôi ngồi rất lâu bên bóng mát của rừng cây, núi đá. Bây giờ yên lặng rồi, yên lặng rất lâu rồi cả cái đại thảm họa không thể hình dung nổi ấy. Cuộc kháng chiến chống quân Minh mười năm gian khổ vừa đi qua chưa bao lâu thì vị anh hùng dân tộc, người có công lao bậc nhất trong cuộc kháng chiến đã phải rơi đầu cả ba họ vì sự trả thù hèn hạ. Đây là nỗi xấu hổ, vết nhục muôn đời không thể tẩy rửa bởi sự tàn độc của một mụ đàn bà cùng bầy nịnh thần a dua trong cung thất của cái triều đình mà Nguyễn Trãi đã chiến đấu mười năm gian khổ, đuổi giặc nước, dựng lên.
Mặc dù sau đó không lâu vua Lê Thánh Tông - người chịu ơn trực tiếp của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ đã xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu tước Tán Trù bá, cho người tìm con cháu còn sót lại của ông để trọng dụng, tìm lại văn thơ của ông để phổ biến, lưu truyền; đến đời vua Lê Tương Dực trả lại ông tước Hầu nhưng nỗi đau lớn ấy không cách gì bù đắp nổi. Những năm ấy, cả cái cơ ngơi thanh bần của Quan Phục hầu Thừa chỉ Nguyễn Trãi tan hoang, lạnh vắng. Hơn sáu trăm năm qua rồi mà dường như nỗi đau vẫn còn u uẩn trên vòm núi cao xanh kia. Họa phúc hữu môi phi nhất nhật. Anh hùng di hận kỷ thiên niên (Họa phúc có nguồn phải đâu một buổi. Anh hùng để hận hàng mấy nghìn năm). Câu thơ Nguyễn Trãi viết trước đó đã vận vào cuộc đời ông? Hay sống giữa triều đình nhiều kẻ độc ác, mưu mô xảo quyệt, nhiều kẻ nịnh thần, cơ hội, Nguyễn Trãi đã linh cảm thấy điều chẳng lành khi ông sống nhân nghĩa quá, thanh cao quá, trung thực quá, đêm ngày đau đáu lo cho nước cho dân “Đêm ngày thức nhẵn nẻo sơ chung”?
ĐÀM CHU VĂN (Đồng Nai)