Ngân hàng Nhà nước cho biết nếu tổ chức tín dụng tự tăng trưởng tín dụng mà không có biện pháp kiểm soát thì hệ thống ngân hàng có thể quay lại tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng như giai đoạn trước năm 2011.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng thừa uỷ quyền của Chính phủ vừa gửi các đại biểu Quốc hội báo cáo về việc thực hiện một số Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn đối với lĩnh vực đến lĩnh vực ngân hàng, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của việc duy trì hạn mức tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng, hay nói cách khác là "room tín dụng".
Trước đó, tại Nghị quyết chất vấn kỳ họp thứ 3 năm 2022 của Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ nghiên cứu hạn chế, tiến tới xóa bỏ việc điều hành phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng. Trên thực tế năm 2022, Quốc hội lần đầu tiên chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về room tín dụng, yêu cầu tiến tới bỏ room tín dụng.
Lý giải về việc này, Thống đốc cho biết trước năm 2011, do đặc thù nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng để cân đối cho các nhu cầu vốn nên tín dụng là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế và có tốc độ tăng rất nhanh.
Việc áp room tín dụng nhằm hạn chế tình trạng tín dụng tăng trưởng nóng, tiềm ẩn nhiều rủi ro mất an toàn hệ thống. Cụ thể, giai đoạn 2007-2010, tăng trưởng tín dụng bình quân cả hệ thống khoảng 36%/năm (2007: 51,54%; 2008: 23,38%; 2009: 37,53%; 2010: 31,19%).
Tỷ lệ tín dụng/GDP giai đoạn này cũng tăng nhanh, từ mức 60,6% năm 2005 lên mức 106,6% năm 2010.
Điều này đã kéo theo hệ lụy là cuộc đua lãi suất huy động giữa các tổ chức tín dụng để có nguồn vốn cho vay, dẫn đến lãi suất cho vay tăng tương ứng và nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng cao, nhiều tổ chức tín dụng có nguy cơ mất thanh khoản, gây bất ổn kinh tế vĩ mô.
Theo Ngân hàng Nhà nước, quá trình triển khai biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng từ năm 2011 đến nay cho thấy tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã giảm từ mức trên 30%/năm (cá biệt có năm tăng gần 52%) xuống còn khoảng từ 12%-14%/năm trong những năm gần đây, từ đó góp phần ổn định thị trường tiền tệ, kiểm soát và duy trì lạm phát ổn định dưới 4%.
Biện pháp này đã góp phần thúc đẩy các tổ chức tín dụng nâng cao năng lực quản trị, điều hành, cải thiện các chỉ số an toàn hoạt động, giảm mặt bằng lãi suất thị trường.
Cũng theo Ngân hàng Nhà nước, bên cạnh các kết quả tích cực đã đạt được thì hệ thống tổ chức tín dụng vẫn còn một số vấn đề như có sự phân hóa giữa các ngân hàng, tình trạng sở hữu chéo chưa được giải quyết triệt để, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng... ảnh hưởng đến quá trình tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Đến nay, đặc thù nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc chủ yếu vào kênh tín dụng ngân hàng để cung ứng cho các nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, tiêu dùng. Nhất là trong bối cảnh thị trường vốn phát triển chưa tương xứng với vai trò cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế và hiện đang gặp nhiều khó khăn thì áp lực cân đối vốn cho nền kinh tế (đặc biệt vốn trung dài hạn) tiếp tục đè nặng lên vai hệ thống ngân hàng, tiềm ẩn rủi ro chênh lệch kỳ hạn, thanh khoản (khi tổ chức tín dụng chủ yếu huy động ngắn hạn nhưng cho vay trung dài hạn).
Trong khi đó, thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế cho thấy thị trường vốn, thị trường chứng khoán có vai trò chủ đạo cung cấp vốn trung dài hạn cho nền kinh tế, hệ thống ngân hàng chủ yếu cung cấp vốn ngắn hạn.
Báo cáo nêu rõ với điều kiện kinh tế đặc thù của Việt Nam, nếu tổ chức tín dụng tự tăng trưởng tín dụng mà không có biện pháp kiểm soát thông qua cả hệ thống các chỉ tiêu an toàn hoạt động và hạn mức tăng trưởng tín dụng, thì hệ thống ngân hàng có thể quay lại tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng như giai đoạn trước năm 2011, không chỉ tạo nợ xấu gia tăng và đe dọa sự an toàn của hệ thống ngân hàng, mà còn rủi ro gây bất ổn vĩ mô chung cho nền kinh tế, rủi ro lạm phát.
“Do vậy, việc duy trì công cụ hạn mức tín dụng là nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, qua đó góp phần tích cực trong kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô. Việc dỡ bỏ biện pháp này cần thận trọng, đảm bảo các điều kiện cần thiết và từng bước thực hiện phù hợp với điều kiện thị trường,” lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh.
Thống đốc cho biết hiện nay trong quá trình điều hành, Ngân hàng Nhà nước đã và đang thực hiện kết hợp triển khai đồng bộ việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn theo chuẩn mực quốc tế trong hoạt động của các tổ chức tín dụng với việc phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho tổ chức tín dụng, qua đó ổn định thị trường tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, cải thiện các chỉ số an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Theo Vietnam+