Tình yêu và mùa thu trở thành những mạch nguồn thẳm sâu vô tận, chảy âm thầm trong huyết quản thi nhân để rồi một ngày kia hòa vào đất trời cất lên điệu buồn nhớ thương, hoài niệm.
Xa lắc mùa thu TRƯƠNG NAM HƯƠNG |
Tôi nghĩ Trương Nam Hương làm thơ tình dễ như người ta lấy chiếc kẹo ra từ trong túi của mình vậy. Điều ấy không phải ai muốn cũng được, mà phải có duyên với đề tài tình yêu. Tình yêu và mùa thu trở thành những mạch nguồn thẳm sâu vô tận, chảy âm thầm trong huyết quản thi nhân để rồi một ngày kia hòa vào đất trời cất lên điệu buồn nhớ thương, hoài niệm. “Xa lắc mùa thu” là một thi phẩm như thế.
Mở đầu bài thơ là thời gian của mùa thu hoài niệm, gợi sự chia phôi theo “tiếc nuối chảy qua cầu”, từ lúc em không còn đến trường vào “mùa thu năm ấy nữa”. Chính nhờ hai từ “năm ấy”, tác giả đã giúp người đọc hình dung về một mối tình học trò vụng dại, hồn nhiên nhưng cũng nhiều trái ngang qua tháng năm vẫn day dứt đến tận bây giờ. Một chiếc lá mùa thu rụng xuống hoàng hôn “xẹt lửa” hóa ra lại là tín hiệu buồn, như một chớp sáng để rồi tan biến vào khoảng không vô tận. Hình tượng ở khổ thơ đầu nhờ thế thật bất ngờ, nghe như một vết dao đau buốt cứa tận tâm can sau tháng ngày li biệt. Phép điệp cấu trúc ở hai câu thơ mở đầu “Em không đến trường…” như một sự khẳng định đầy xót xa. Không biết vì lẽ gì, vì duyên cớ nào mà người con gái mình yêu thương sớm từ giã học đường, từ giã tuổi thơ đầy mộng mơ để tìm một con đường mới. Tác giả khẳng định để rồi tự mình giày vò, xót xa tưởng như không gì có thể làm nguôi ngoai tâm hồn chàng thư sinh nhiều mơ mộng: “Em không đến trường mùa thu năm ấy nữa/ Em không đến trường cả mùa thu năm sau/ Chiếc lá rụng xuống hoàng hôn xẹt lửa/ Theo mùa thu tiếc nuối chảy qua cầu”.
Từ độ em đi, cuộc đời hóa thành vực sâu, ghềnh thác. Số phận nghiệt ngã đã xô đẩy thi nhân tìm vào cõi thơ để cố lãng quên. Nhưng càng cố quên trái tim càng thêm luyến nhớ. Khổ thơ thứ hai thật giàu hình tượng nhờ tác giả sử dụng kết hợp nhiều biện pháp tu từ nghệ thuật đặc sắc, nhiều cách biểu đạt mới mẻ, ấn tượng nên dễ làm rung động tâm hồn người đọc. Cuộc đời thi nhân giờ chỉ biết vịn vào những câu thơ để sống, yêu thương và hoài niệm; nhưng đó là những câu thơ ngậm ngùi “chở chòng chành tiếng khóc” qua “tháng năm buồn ghềnh thác, vực sâu”. Ký ức vẫn bồi hồi, sáng trong, đẹp đẽ như dòng sông để rồi nhân vật trữ tình xưng tôi “uống cạn” trong nỗi nhớ thương và tiếc nuối đến vô cùng. Càng nhớ tiếc, càng khóc thương về mộng đẹp không thành, nhà thơ càng nghe mùa thu xa lắc trở về day dứt, xót xa: “Tháng năm buồn ghềnh thác vực sâu/ Câu thơ chở chòng chành tiếng khóc/ Tôi uống cạn dòng sông trong vốc tay ký ức/ Nghe mùa thu xa lắc ngấm vô lòng”.
Thế nhưng, cái hay của bài thơ là sau bao nhiêu đắng cay, nghiệt ngã, lòng thi nhân vẫn tràn đầy niềm yêu, ước mơ về một tình yêu bền vững, chân thành. Em không đến trường từ mùa thu năm ấy và cả những mùa thu năm sau, vậy mà nhà thơ vẫn cứ hồ nghi, tưởng tượng một ngày em quay trở lại như chính mùa thu qua đi rồi lại quay về. Nếu khổ thơ thứ hai là tiếng khóc của nỗi đau khổ ngập tràn thì đến khổ thứ ba bỗng bừng lên niềm hy vọng mong manh như một trò đùa hư ảo: “Biết em còn đến lớp với tôi không/ Lo phấp phỏng tháng ngày trôi vội vã”. Giật mình, thảng thốt khi nhận ra bóng thời gian đã ngả về chiều như sắc thu vàng qua chiếc lá phôi phai mà màu nắng đã “ký thác” đời mình mới bừng tỉnh mộng: “Nắng ký thác đời mình qua sắc lá/ Mới hiểu mùa thu đánh tráo tuổi xanh rồi”. Quả vậy, có gì buồn hơn khi tuổi xanh hun hút, hiện tại người yêu vắng xa và hồn thi nhân đang đối diện trước mùa thu hư ảo cuộc đời.
Bài thơ khép lại bằng mùa thu thực tại thật nhẹ nhàng nhưng cũng man mác buồn. Vẫn trước cổng trường ngày xưa mình học, ngày đôi lứa có nhau, nhưng giờ đây “Tôi quá tuổi học trò từ đấy em ơi”. Một sự thảng thốt vỡ tim, nhói buốt qua hai từ “em ơi” da diết đến bàng hoàng. Mùa thu hiện về cụ thể, sống động tưởng có thể “nhặt” được từ đôi bàn tay của chính mình sao bỗng xa xôi không tưởng. Tứ thơ nhờ vậy để lại nhiều dư vị ngọt ngào, mến thương xen lẫn buồn đau, tiếc nuối. Tiếng đứa con gái tan trường “giục” người cha là nhân vật trữ tình xưng “tôi” nghe mới thật da diết và quặn thắt làm sao! Quá khứ và hiện tại, hạnh phúc và khổ đau, dịu dàng và bão tố… trong cuộc đời mỗi con người hóa ra có lúc lại đan cài, tan loãng vào nhau để thăng hoa thành vẻ đẹp nhân văn, thành chất thơ “xát muối” giữa lòng người.
Bài thơ “Xa lắc mùa thu” được Trương Nam Hương viết dễ chừng đã trên hai mươi năm, vậy mà mỗi lần đọc lại, tôi cứ như bắt gặp một mùa thu hiện tại của chính lòng mình: vừa thanh khiết, mộng mơ; vừa đắng cay, nuối tiếc. Song vượt qua tất cả, tâm hồn mỗi chúng ta vẫn mãi hàm ơn mùa thu - mùa của vẻ đẹp tình yêu dịu dàng, thăng hoa thành nỗi buồn muôn thuở để rồi làm sáng lên tính nhân văn, tinh thần trách nhiệm và bổn phận của mỗi con người trong tình yêu và cuộc sống gia đình.
LÊ THÀNH VĂN