Phía sau tấm huy chương là cả một hành trình dằng dặc đầy máu và nước mắt, đầy mất mát hy sinh của mẹ tôi, của biết bao bà mẹ như mẹ tôi, của dân tộc ta để đi đến độc lập - tự do.
Mẹ tôi về làm dâu nhà bố tôi từ năm hai mươi tuổi. Do sự sắp đặt của bố mẹ hai bên, do sự khéo nói của bà mai mối. Chả biết tính tình ra sao, cái đó do phúc phận nhà chồng sau này rèn giũa. Còn lúc ấy, nhìn mẹ tôi với dáng người khỏe mạnh, thân hình nở nang, bà nội tôi không giấu niềm phấn khởi. Bà nói nhỏ với chồng: “Cái tạng người “lưng chữ gụ vú chữ tâm” cứ gọi là đi qua đầu giường cũng đủ để mang thai”.
Ngày xưa các bậc cha mẹ thường cưới vợ cho con trai để lấy người lo chuyện đồng xa ruộng gần, chuyện hầu hạ bố mẹ chồng. Nhưng ông bà nội tôi lại không thế. Bố tôi kể rằng từ đời ông nội tôi trở lên đến cụ nội tôi chỉ sinh có một người con trai duy nhất. Nó như định mệnh. Có lẽ vì thế mà các vấn đề như nhan sắc, tính nết, hay bất kỳ điều gì khác của mẹ tôi đều đặt xuống hàng thứ yếu. Ông bà nội tôi chỉ cần mẹ tôi thật mắn đẻ. Đẻ càng nhiều càng tốt. Đẻ đàn, đẻ lũ toàn con trai, để xóa đi cái dớp “độc đinh” đeo đẳng.
Ấy vậy mà hai năm sau mẹ tôi mới sinh ra anh Khải. Sau anh Khải là anh Khuê, anh Khang, anh Khương rồi đến tôi. Năm anh em toàn con trai, cứ năm một, chênh nhau nửa cái đầu. Hoàn cảnh ông bà nội tôi từ chỗ tùng tiệm đủ chi dùng nhanh chóng chuyển sang thiếu thốn. Gia đình đã phải ăn độn khoai, độn ngô. Bù lại là niềm vui của ông bà nội tôi không để đâu cho hết. Đi đâu ông bà cũng khoe về năm thằng cháu nội nghịch như quỷ sứ, ăn như hùm đổ đó. Ông nội tôi nói đùa: “Giá như đất mà ăn được chắc “lũ quỷ” nhà tôi cũng chẳng từ”.
Cứ mỗi lần sinh nở, mẹ tôi được ăn cơm gạo trắng với giò, chả quế rim nhạt. Không rõ bà nội tôi kiếm được từ đâu. Mẹ tôi được ăn một mình một mâm, được ngồi ở nhà trên. Mỗi lần đến bữa cơm, mẹ tôi lén không để ông bà nội biết, xuống nhà dưới san cơm trắng, giò chả cho chúng tôi. Mẹ xoa đầu từng đứa, rồi bảo: “Anh Khải chia đều cho các em nhé!”. Mẹ tôi lại bưng bát toàn khoai độn.
Năm anh em chúng tôi cứ thế lớn lên. Chúng tôi cãi nhau chí chóe suốt ngày. Mỗi lần có đứa mách tội nhau, bà nội tôi bảo ông nội: “Kìa quan công sứ, mời ngài xử kiện đi”. Ông nội tôi cười khà khà: “Thế mới vui nhà, vui cửa. Nhà này ba đời đã khi nào vui như bây giờ đâu”. Được thể, năm anh em tôi cãi nhau chán rồi nhảy bổ vào nhau đấm đá túi bụi, mặc bà nội tôi gào thét đến mỏi miệng. Ông nội tôi vẫn cười.
Nhìn chúng tôi vật nhau huỳnh huỵch cùng với tiếng khóc ré lên của tôi, lẫn vào tiếng quát của mẹ. Bốn người anh trên tôi nem nép nơi cửa buồng. Tôi ngồi giữa sân đội nắng khóc hu hu. Mẹ gọi cả năm anh em tôi lại gần bảo: “Anh em các con chung một bố mẹ, là khúc ruột trên khúc ruột dưới. Nói nặng lời với nhau đã xót xa lắm rồi. Nay lại còn đánh nhau nữa, các con có thấy đau lòng không? Mẹ buồn lắm!”. Rồi mẹ tôi nhắc anh Khải, anh Khuê, anh Khang từ nay không được đánh các em. Mẹ lại bảo anh Khương và tôi xin lỗi các anh. Năm anh em chúng tôi khoanh tay trước ngực xin lỗi mẹ và hứa lần sau không dám thế nữa. Mẹ tôi cười mãn nguyện, khen các con ngoan, biết vâng lời. Bà nội tôi quay mặt đi giấu niềm xúc động. Ông nội tôi không thể cười được nữa.
Mỗi sáng mẹ tôi đi chợ về là anh em chúng tôi lại một lần chí chóe tranh giành nhau cái bánh, cái kẹo. Mẹ tôi lại phải an ủi mấy người anh lớn, vỗ về tôi và anh Khương. Về sau, mẹ tôi mua cái gì cũng bằng nhau chằn chặn, cùng loại, cùng số lượng. Xong xuôi cho đàn con, mẹ tôi mới ra đồng. Năm anh em tôi lại đuổi nhau ầm ầm ngoài sân dưới trời nắng, giành nhau con dế mèn, dóng mía, hoặc cái kẹo vừng chợ quê. Ông nội tôi thường dặn mẹ tôi: “Con hãy cố gắng bảo ban chúng sau này trở thành người có ích”. Mẹ tôi cúi đầu: “Con xin nghe lời dạy bảo của thầy u”. Đó là vào những năm nửa sau của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Rồi hòa bình năm 1954. Rồi tiếp đến chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ năm 1964 lan tới quê tôi. Bom thù dội xuống từng luỹ tre, mái rạ. Máu dân lành đã đổ. Rất nhiều vành khăn trắng thắt ngang trên mái đầu của những đứa trẻ lên ba. Đất nước lâm nguy. Tuổi trẻ náo nức lên đường tòng quân cứu nước. Vào thời điểm “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, bốn người anh trên tôi lần lượt lên đường nhập ngũ. Tôi nhớ mỗi lần các anh tôi nhập ngũ, mẹ tôi và tôi đều tiễn ra tận nơi giao nhận quân.
Lần anh Khải đi, mẹ tôi cười, nụ cười tươi rói. Rạng rỡ và tự hào. Mẹ cầm tay anh Khải âu yếm dặn dò: “Chúc con lên đường chân cứng đá mềm”. Mẹ tôi tin chắc một ngày không xa nữa, anh Khải tôi sẽ trở về khỏe mạnh, bình an. Năm sau anh Khuê tiếp tục nhập ngũ. Nụ cười mẹ tôi chừng như bịn rịn. Vẫn cái nắm tay nhè nhẹ: “Con đi mạnh giỏi. Cố gắng phấn đấu cho bằng anh, bằng em”. Thêm một năm nữa, đến lượt anh Khang, anh Khương. Mẹ tôi vẫn cười. Nhưng nụ cười héo úa làm sao. Hàm răng đen nhức của mẹ tôi bập vào môi tưởng bật máu. Mẹ tôi cố giấu đi nỗi niềm xa xót những đứa con khỏe mạnh, trai tráng từ nay rời vòng tay mẹ đi vào nơi mũi tên, hòn đạn. Cái sống, cái chết cách nhau trong gang tấc. Để yên lòng hai người anh tôi, mẹ tôi cố nén lại dòng nước mắt. Chẳng điều gì có thể nói trước được, nhất là trong chiến tranh.
Trên đường về mẹ tôi khóc nhiều lắm. Tôi cứ lặng lẽ đi bên mẹ. Có lẽ vì căng thẳng thần kinh hoặc do quá mệt mỏi, mẹ tôi dừng lại tì một tay vào thân cây phi lao già, tay kia nâng vạt áo lau nước mắt. Tôi bỗng nhận ra mẹ tôi già đi đến chục tuổi. Cái lưng mẹ tôi còng xuống nhiều lắm rồi.
Năm 1972, bốn cái tang liên tiếp dội xuống gia đình tôi, dội xuống đầu mẹ tôi. Ông bà nội tôi già cả, không chịu nổi sự đau đớn tột cùng nên ngã bệnh và lần lượt mất sau đó ít tháng. Mẹ tôi không khóc. Đôi mắt mẹ ráo hoảnh đến thẫn thờ. Mẹ tôi nhìn trừng trừng vào bốn tấm bằng Tổ quốc ghi công. Dường như mẹ tôi muốn tìm lại hình bóng của bốn đứa con thân yêu trong đó.
Mấy tháng trời, mỗi buổi chiều đi làm đồng về, bao giờ mẹ cũng móc trong giỏ ra, lúc thì con dế mèn, lần thì con châu chấu voi xanh biếc. Mẹ tôi buộc chỉ cẩn thận rồi đặt lên bàn thờ các con. Mẹ tôi thầm thì điều gì không ai nghe rõ. Trong mắt người mẹ, các con dù bao nhiêu tuổi vẫn cứ là những đứa trẻ ngây thơ, khờ dại. Làm xong phần việc cho các con, mẹ tôi ngồi xuống bậu cửa cúi đầu gỡ tóc. Mẹ tôi tỉ mẩn nhặt từng sợi tóc tướp táp, xơ cứng. Trong vòng có mấy năm, gia đình tôi phải chịu sáu cái tang. Mẹ tôi ăn uống thất thường. Bố tôi lo lắng không dám rời mẹ tôi nửa bước, chỉ lo bà quẫn lên làm điều gì dại dột.
Nhà tôi sau ngày ông bà nội mất, cảm giác trống vắng càng lớn. Cái hoang lạnh đến rợn người. Mẹ tôi đi, về như cái bóng. Bố tôi thủ thỉ: “Nếu khóc được, mình nên khóc lấy một chút cho vơi đi nỗi đớn đau. Chứ cứ như thế này tôi sợ lắm. Con mình hy sinh vì dân, vì nước thì mình phải sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh ấy”. Mẹ tôi ngước nhìn bố tôi rồi đưa hai bàn tay khô gầy cho ông chậm rãi dìu vào trong nhà. Mẹ tôi ngồi xuống cạnh giường ôm lấy tôi. Hai mái đầu chụm lại như truyền chút hơi ấm còn sót lại cho nhau. Tôi thấy má tôi ướt đầm, vị mặn đắng trên môi. Không rõ đó là nước mắt của mẹ tôi, hay của tôi. Bố tôi lặng im đứng nhìn. Hai giọt nước mắt to tròn sậm sịt lăn nhanh trên gò má sạm đen của ông.
Tôi tình nguyện nhập ngũ giữa năm 1973 khi vừa tốt nghiệp cấp 3. Mẹ tôi vẫn là người đưa tiễn như bốn người anh trên tôi. Mẹ tôi không hề ngăn cản việc tôi làm. Gia đình tôi đã có bốn liệt sĩ nên tôi trong diện tạm hoãn nghĩa vụ quân sự. Mấy hôm trước, mẹ tôi phải lên huyện đội ký giấy đồng ý cho tôi nhập ngũ đợt này. Mẹ tôi nói với ông huyện đội trưởng: “Vâng theo lời Cụ Hồ kêu gọi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi tình nguyện hiến dâng cho Tổ quốc đứa con cuối cùng. Mong các anh đồng ý cho nó lên đường đền nợ nước, trả thù nhà”. Nói vậy, chứ tôi biết mẹ tôi buồn lắm. Người mẹ cứ như muốn rũ xuống. Chẳng qua mẹ tôi cố ngoài mặt làm vui để cho tôi yên lòng lên đường thôi.
Đại thắng mùa xuân năm 1975, tôi trở về lành lặn nguyên vẹn như lời chúc của mẹ. Mái tóc mẹ tôi giờ đây đã bạc trắng. Lưng mẹ tôi còng xuống nhiều hơn. Những bước chân chậm chạp run rẩy, hai hốc mắt lõm sâu. Mẹ tôi đấy. Một người đàn bà như biết bao bà mẹ Việt Nam, bình dị như cây cau trước sân nhà, suốt đời ấp bẹ vun hoa để rồi bung ra những lứa quả ngọt cho đời.
Hôm nay, UBND xã thay mặt nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam long trọng tổ chức lễ tuyên dương công trạng và phong tặng danh hiệu cao quý: “Mẹ Việt Nam anh hùng” cho mẹ tôi. Mẹ tôi đi giữa hai hàng kiêu binh danh dự bồng súng đứng nghiêm. Chào. Mẹ tôi đi trong tiếng kèn đồng vang lừng rộn rã và tiếng hát hào hùng của lực lượng vũ trang. Cả đời mẹ tôi quẩn quanh việc nhà, việc đồng áng chưa từng xuất hiện chốn đông người. Bước chân mẹ tôi run lắm. Không biết có bao giờ mẹ tôi nghĩ một ngày nào sẽ xuất hiện trước các quan chức cấp cao từ trung ương đến xã, trước ống kính phóng viên như hôm nay? Chắc chắn là không. Tôi chỉ thấy mẹ tôi sợ. Mẹ tôi sợ mình quê mùa sơ ý làm điều gì đó, nói câu gì đó thất thố trước mặt mọi người. Mẹ tôi sợ cái không khí trang nghiêm đến thiêng liêng của buổi lễ. Thậm chí mẹ tôi còn không dám đặt tay lên chiếc khăn trải bàn trắng muốt trước mặt.
Rất nhiều người khóc. Mẹ tôi không khóc. Mẹ tôi khóc nhiều rồi. Đêm nào mẹ tôi cũng khóc. Nước mắt mẹ tôi đã cạn kiệt. Chỉ khi tấm huy chương “Mẹ Việt Nam anh hùng” được cài lên ngực áo, mẹ tôi mới gục vào vai cô gái đứng bên nức nở.
Tôi lặng nhìn mẹ. Ngọn gió từ đâu thổi tới vô tình lật đi, lật lại tấm huy chương lóng lánh màu vàng tươi trên tấm áo nâu bình dị của mẹ tôi. Tôi chợt hiểu. Mắt tôi rưng rưng. Phía sau tấm huy chương là cả một hành trình dằng dặc đầy máu và nước mắt, đầy mất mát hy sinh của mẹ tôi, của biết bao bà mẹ như mẹ tôi, của dân tộc ta để đi đến độc lập - tự do. Và cũng phía sau tấm huy chương anh hùng ấy, dưới làn áo mỏng bạc phếch vì nắng mưa, là trái tim vĩ đại của những người mẹ Việt Nam luôn trụ vững với thời gian.
Truyện ngắn của NGUYỄN SỸ ĐOÀN