Đền Bia không phải là nơi thờ chính Tuệ Tĩnh nhưng lại được nhân dân địa phương đến thăm viếng nhiều nhất, vì nơi đây đã trở thành trung tâm thuốc nam uy tín
Chùa Giám ở xã Cẩm Sơn (Cẩm Giàng), một công trình có nhiều nét kiến trúc độc đáo. Ảnh: Thành Chung
Hiếm có nơi nào trên đất nước ta có một cụm di tích gồm ba ngôi đền, chùa nằm ở 3 xã giáp nhau cùng thờ một vị tổ mà mỗi di tích lại có những nét đặc sắc riêng và gắn liền với những câu chuyện hấp dẫn, đậm màu sắc dân gian.
Kiến trúc độc đáo“Đền Bia không phải là nơi thờ chính Tuệ Tĩnh nhưng lại được nhân dân địa phương đến thăm viếng nhiều nhất, vì nơi đây đã trở thành trung tâm thuốc nam uy tín”.
|
|
Đền Bia, đền Xưa, chùa Giám là cụm 3 di tích nằm trên địa bàn 3 xã Cẩm Sơn, Cẩm Vũ và Cẩm Văn của huyện Cẩm Giàng. 3 di tích ở rất gần nhau, cùng thờ một vị tổ là Đại danh y thiền sư Tuệ Tĩnh song ở mỗi nơi lại có những công trình kiến trúc độc đáo, tạo dấu ấn và chỗ đứng riêng trong đời sống văn hóa, tâm linh người dân địa phương. Đến thăm cụm di tích này, khách tham quan được tham dự hành trình xuyên suốt cuộc đời vị Đại danh y tài hoa mà thân phận long đong.
Chùa Giám nằm ở xã Cẩm Sơn là nơi gắn với cuộc đời Tuệ Tĩnh từ khi ông còn nhỏ. Theo các nguồn tài liệu lịch sử và truyền thuyết tại địa phương, thì Tuệ Tĩnh sinh vào khoảng năm 1330, mồ côi cha mẹ từ năm 6 tuổi, được sư thầy Hải Triều ở chùa Giám nuôi và cho đi học. Thời niên thiếu và những kiến thức đầu đời về y học của ông đã được nuôi dưỡng, gắn bó với ngôi chùa này. Điểm đặc sắc nhất của chùa Giám là tòa cửu phẩm liên hoa được đặt ở sân phía sau tam bảo. Nhà cửu phẩm hình vuông (8 x 8 m), cao 3 tầng, 12 mái, có nhiều mảng kiến trúc còn giữ được dấu ấn của thế kỷ 17. Trong nhà cửu phẩm là tòa cửu phẩm liên hoa gồm 9 tầng hoa sen, cao trên 6m hình lục giác đều, mỗi cạnh 1,24m. Trên cửu phẩm có 145 pho tượng Phật. Toàn bộ kết cấu cửu phẩm liên kết với một trụ gỗ lim lớn ở giữa, trụ này đặt trên ngõng đá, tựa một ổ bi. Vào ngày lễ Phật, chỉ cần 2 người đẩy, cửu phẩm có thể quay nhẹ nhàng. Tòa cửu phẩm liên hoa là công trình kiến trúc Phật giáo độc đáo chỉ có ở Việt Nam. Hiện nay, trong cả nước chỉ còn 3 tòa cửu phẩm liên hoa có thể quay được, 2 tòa còn lại ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) và chùa Đồng Ngọ (Thanh Hà, Hải Dương).
Nếu như chùa Giám gắn với những năm tháng đầu đời của Đại danh y Tuệ Tĩnh thì đền Xưa là ngôi đền chính thức được xây dựng để thờ ông. Chưa xác định đền được khởi dựng từ năm nào nhưng căn cứ di vật kiến trúc hiện còn có thể xác định vào thế kỷ 17 đã có một ngôi đền kiên cố, chạm khắc tinh tế. Hiện tại di tích còn khoảng 50 cổ vật có giá trị như chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 8 (1855), sắc phong cho Tuệ Tĩnh vào các thời Thiệu Trị, Tự Đức, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại... Đây là những vật chứng cho sự nghiệp y học lẫy lừng đã được ghi nhận của Tuệ Tĩnh trong lịch sử.
Đến thăm đền Bia, ta như đang được quay trở lại đoạn cuối cuộc đời vị đại danh y. Đền được xây dựng để thờ ông và tấm bia tương truyền được tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đặt khắc theo nguyên mẫu tấm bia đặt trên mộ ông bên Giang Nam (Trung Quốc). Bên cạnh tấm bia này, ngôi đền còn có công trình độc đáo là vườn thuốc nam rộng lớn, phong phú các loại dược liệu. Đền Bia không phải là nơi thờ chính Tuệ Tĩnh nhưng lại được nhân dân địa phương đến thăm viếng nhiều nhất, vì nơi đây đã trở thành trung tâm thuốc nam uy tín. Vào dịp lễ hội (1-4 âm lịch) khách trẩy hội rất đông, nhiều du khách tới đây cắt thuốc nam như một cách cầu may về sức khỏe.
“Thân phận” ly kỳDanh y Tuệ Tĩnh là người tài hoa nhưng thân phận long đong. Có lẽ bởi vậy nên xoay quanh những di tích thờ ông cũng có những câu chuyện khá ly kỳ. Hơn 40 năm về trước, chùa Giám đi liền với đình và nghè Giám đã được dịch chuyển vị trí trong một cuộc di dời hiếm có. Trải qua những năm kháng chiến chống Pháp, nhà tổ, hành lang, tam quan không còn, nhiều cổ vật bị thất lạc hoặc bị hủy hoại. Năm 1971, do yêu cầu giải phóng dòng chảy, chống lũ lụt, toàn bộ xã Cẩm Sơn phải di chuyển đến một địa điểm mới cách 7 km về phía tây, cách cầu Ghẽ trên đường 5 hơn 2 km về phía bắc. Năm 1972, toàn bộ công trình gồm chùa, cửu phẩm và nghè Giám được tháo dỡ chuyển theo dân cư về xã mới. Trong hoàn cảnh chiến tranh cộng với vỡ đê, ngập lụt, mất mùa, khó khăn bủa vây tứ phía. Nhưng nhân dân và chính quyền địa phương vẫn quyết tâm di chuyển và dựng lại di tích tại địa điểm mới, gìn giữ một biểu tượng tinh thần thiêng liêng của làng xã mình. Các chi tiết công trình được giải hạ, các kết cấu gỗ được bao gói bằng bao tải độn lót lá cỏ, xếp lên xe bò, từng chuyến, từng chuyến chuyển về địa điểm mới. Được sự hỗ trợ của Nhà nước, hai năm sau, công trình được dựng lại an toàn, theo hướng quy hoạch cũ, tại trung tâm xã mới. Đây được đánh giá là một cuộc dịch chuyển kỳ công, một việc chưa từng có trong lịch sử Hải Dương.
Đền Bia là ngôi đền nổi tiếng linh thiêng và câu chuyện về tấm bia được thờ ở đây đầy ly kỳ và xúc động. Tương truyền, năm 55 tuổi Tuệ Tĩnh phải sung vào đoàn sứ bộ đi Trung Quốc và mất tại Giang Nam. Năm 1669, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho, người cùng làng với Tuệ Tĩnh cũng đi sứ sang Trung Quốc đã đến viếng mộ Tuệ Tĩnh tại Giang Nam. Tấm bia đặt trên mộ người con xa xứ ấy có khắc ghi dòng chữ: “Về sau có ai bên nước nhà sang, nhớ cho hài cốt tôi về với” (có 2 bản dịch phổ biến câu này, bản thứ 2 là “Ai về nước Nam, cho tôi về với”). Lời dặn ấy là tấm lòng đau đáu hướng về quê hương của Tuệ Tĩnh đã theo ông về nơi chín suối. Xúc động trước tình cảm ấy, Nguyễn Danh Nho đã cho dập mẫu tấm bia, thuê thợ làm lại và mang về quê. Khi đó cả vùng quê ông đang bị ngập lụt, xuôi thuyền đến địa phận đền Bia hiện nay thì thuyền bị lật, tấm bia rơi xuống. Đến khi nước cạn, người dân tìm thấy tấm bia ở nơi roi đất có hình con dao cầu (dao thái thuốc), cho là ý nguyện của Tuệ Tĩnh linh ứng vào mảnh đất này nên đã dựng miếu thờ bia.
Phát huy truyền thống y dược và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, chính quyền và ngành y tế, Hội Y học cổ truyền dân tộc huyện Cẩm Giàng hiện đã thành lập tổ chẩn trị y học, chuyên bốc thuốc nam chữa bệnh và trồng nhiều cây thuốc tại khu vực đền Bia. Hằng năm, nhân dân thập phương vẫn đến đền Bia để cắt thuốc và tưởng nhớ Tuệ Tĩnh - Đại danh y của dân tộc với tấm lòng thành kính.
Những câu chuyện truyền tụng trong dân gian phủ một sắc màu huyền hoặc và linh thiêng lên các di tích. Song cốt lõi của những câu chuyện ấy không phải những gì phi lý mà là cuộc đời, đức độ có thật của Đại danh y - thiền sư Tuệ Tĩnh. Cùng với những câu chuyện ấy, tài năng, công đức, tấm lòng với quê hương của ông sẽ còn sống mãi trong lòng những người con của mảnh đất này.
VIỆT HÒA