Thỏa ước lao động tập thể thể hiện sự dân chủ trong quan hệ lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động.
Theo điều 73 Bộ luật Lao động năm 2012, thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) là văn bản thỏa thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động mà hai bên đã đạt được thông qua thương lượng tập thể. Đối với doanh nghiệp, TƯLĐTT có vai trò khá quan trọng. Nó giống như một bản cam kết quy định trách nhiệm của chủ doanh nghiệp và người lao động trong thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở quy định pháp luật lao động. Thực hiện ký TƯLĐTT góp phần điều hòa lợi ích, hạn chế cạnh tranh không cần thiết, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự gắn bó chặt chẽ giữa người lao động và chủ sử dụng lao động. TƯLĐTT cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để xem xét, giải quyết tranh chấp lao động (nếu xảy ra sau đó). Như vậy có thể thấy rằng TƯLĐTT thể hiện sự dân chủ trong quan hệ lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động.
Tuy có vai trò quan trọng như vậy nhưng hiện nay số lượng doanh nghiệp ký kết và thực hiện đúng quy định về TƯLĐTT vẫn còn hạn chế. Theo báo cáo của các công đoàn cấp trên cơ sở, hằng năm, Hải Dương mới có từ 55-60% số công đoàn cơ sở doanh nghiệp tiến hành đàm phán, thương lượng, ký kết và thực hiện TƯLĐTT. Trên thực tế còn hàng nghìn tổ chức công đoàn khối doanh nghiệp chưa được kiểm tra, thống kê về việc ký kết TƯLĐTT. Chất lượng của các bản TƯLĐTT cũng còn nhiều hạn chế. Nhiều bản TƯLĐTT chưa thực hiện đúng trình tự, quy định của pháp luật từ khâu thương lượng, ký kết đến nội dung đàm phán. Đặc biệt, vẫn có những bản TƯLĐTT chỉ mang tính hình thức, thể hiện sự đối phó của doanh nghiệp bởi nó không hề đả động đến những nội dung có lợi cho người lao động về tiền lương, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi...
Nguyên nhân hạn chế trước hết do nhận thức của doanh nghiệp chưa đầy đủ về tầm quan trọng của TƯLĐTT. Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng nếu đưa những điều khoản có lợi cho người lao động vào TƯLĐTT, doanh nghiệp sẽ chịu thiệt vì phải thực hiện thường xuyên, lâu dài. Một nguyên nhân khác là hầu hết cán bộ công đoàn cơ sở khối doanh nghiệp đều kiêm nhiệm. Họ chưa nắm vững các quy định của pháp luật về trình tự xây dựng, đàm phán, ký kết TƯLĐTT tại doanh nghiệp.
Để nâng cao số lượng và chất lượng các bản TƯLĐTT trong các doanh nghiệp, các cấp công đoàn cần đẩy mạnh tuyên truyền tại các doanh nghiệp cho cả chủ sử dụng và người lao động về lợi ích và vai trò của TƯLĐTT. Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng đàm phán, thương lượng, ký kết TƯLĐTT cho các cán bộ công đoàn kiêm nhiệm khối doanh nghiệp. Các công đoàn cấp trên cơ sở cần thực hiện tốt việc hạ điểm thi đua hằng năm đối với những công đoàn cơ sở không đại diện cho người lao động để tiến hành thương lượng, đàm phán hoặc có thực hiện nhưng không đạt được mục đích ký kết TƯLĐTT với chủ sử dụng lao động. Đối với những doanh nghiệp không ký kết TƯLĐTT hoặc không thực hiện đúng nội dung thương lượng, cơ quan quản lý nhà nước cần xử lý nghiêm theo quy định.
NGỌC THANH(TP Hải Dương)