Đọc xong bài thơ trên tôi không thể nào cầm nổi nước mắt. Hóa ra số phận người phụ nữ Việt Nam sao mà cơ khổ và đau thương thế kia! Chiến tranh đâu chỉ cướp đi làng mạc thanh bình, tàn phá nhà cửa, ruộng vườn.
Bài ca tóc rụng Trà Nô, Quảng Nam, 1973 TRIỆU THỊ THÙY |
Đọc xong bài thơ trên tôi không thể nào cầm nổi nước mắt. Hóa ra số phận người phụ nữ Việt Nam sao mà cơ khổ và đau thương thế kia! Chiến tranh đâu chỉ cướp đi làng mạc thanh bình, tàn phá nhà cửa, ruộng vườn; chiến tranh còn hủy diệt cả tuổi thanh xuân và cái đẹp. Hiện thực khốc liệt trong thời kỳ cả nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được Triệu Thị Thùy - một phóng viên ảnh chiến trường đã ghi lại thật cảm động qua bài thơ Bài ca tóc rụng.
Ai đã từng đọc Tây Tiến của Quang Dũng, một thi phẩm nổi tiếng viết về người lính chống Pháp, hẳn đều giật mình trước hình tượng bi hùng về đoàn quân không mọc tóc: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm". Nhưng dù sao cảnh người lính rụng tóc vẫn hiện lên đậm chất tráng ca, bởi lẽ họ là "những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng", ra đi vì nghĩa lớn nước non. Ở bài thơ "Bài ca tóc rụng", Triệu Thị Thùy phát hiện một cảnh tượng thật đặc biệt, dễ khiến ta bùi ngùi thương cảm: "Cứ mỗi năm ở chiến trường/ Mái tóc em lại rụng thêm một ít". Người con gái có mái tóc dài làm duyên: "Tóc ngang lưng vừa chừng em bới/ Để chi dài bối rối dạ anh" (ca dao) đâu còn nữa khi chiến tranh đã cướp đi những gì đẹp nhất của đời người. Vẻ đẹp của tuổi thanh xuân qua mái tóc dài vô tình được các cô gái phát hiện ngày một rụng dần sau những cơn sốt rét rừng nguy hiểm. Mỗi ngày các cô gái ra bến sông gội tóc là mỗi lần nhận ra nỗi đau của chính mình, nhưng đồng thời cũng nhớ lại những câu chuyện kể cảm động của bà, của mẹ khi quay về những kỷ niệm ngày xưa: "Lúc còn thơ ngồi nghe bà kể chuyện/ Ngày xửa ngày xưa có con chim nhạn/ Rút lông dệt áo cho chồng/ Chiếc áo thành, chim nhạn rụng hết lông".
Từ hiện thực chiến tranh khốc liệt với chuyện rụng tóc mỗi ngày của các cô gái nơi chiến trường ác liệt, tác giả đã nâng bài thơ lên thành một cảm xúc mới, một tứ thơ đầy triết lý: Không thể có hạnh phúc nếu không có sự hy sinh. Vâng, hy sinh chính là sự khởi nguồn của hạnh phúc. Con chim nhạn đan áo cho chồng phải chấp nhận khổ đau khi thân mình "rụng hết lông", miễn sao tấm áo cho chồng dệt xong trước mùa đông đến. Mượn câu chuyện đầy huyền tích, Triệu Thị Thùy đã khái quát được một lẽ sống ở đời, một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc: "Ừ có phải lời nhủ từ thuở trước/ Chẳng hạnh phúc nào không có hy sinh/ Mái tóc em giờ ngắn ngang lưng/ Dù rất nhỏ cũng góp phần hạnh phúc".
Từ mái tóc dài óng mượt, tóc em giờ chỉ còn ngắn ngang lưng, không biết rồi đây sẽ ngắn thêm bao nhiêu nữa bởi mỗi năm cứ rụng thêm dần. Em đã lấy tình yêu đất nước mà chấp nhận hy sinh cái phần tươi đẹp của đời mình vốn được tạo hóa ban cho người phụ nữ. Cái hay của bài thơ trong phần cuối là tái hiện cảnh một bà cụ tóc bạc cũng chính là nhân vật trữ tình ngồi kể chuyện cho cháu con nghe về những người tóc rụng như ngày xưa như tác giả đã từng nghe bà mình kể về cảnh tượng con chim nhạn rút hết lông dệt áo cho chồng, không quản gì mất mát, hy sinh: "Rồi một mai khi tuổi già tóc bạc/ Em sẽ ngồi kể chuyện giữa cháu con/ Câu chuyện mở đầu rằng ngày ấy ở miền Nam/ Bà đã gặp những người tóc rụng".
Bài thơ có một cấu tứ vững vàng trên một cái nền hiện thực của cuộc chiến tranh chống Mỹ khốc liệt mà tác giả là người lính tham gia đánh giặc. Lời thơ như câu chuyện lòng thầm kể, thủ thỉ và thiết tha, song vẫn không dàn trải cảm xúc, chỉ đủ độ cần thiết để người đọc rung động. Hình ảnh thơ chủ yếu xoay quanh hình tượng "mái tóc em" ngày xưa bên dòng Trà Nô và hiện tại là mái đầu tóc bạc giữa cháu con đang bồi hồi kể chuyện. Bình dị và sâu lắng, "Bài ca tóc rụng" đã đánh thức nhiều cảm xúc trong mỗi chúng ta khi cảm nhận về chiến tranh và nỗi đau lớn lao của những con người đi qua chiến tranh, nhất là những người phụ nữ, để mang lại hạnh phúc thanh bình cho cuộc sống hôm nay.
LÊ THÀNH VĂN