"Tiếng thở dài" của gốm Cậy

11/05/2015 07:58

Trong quá khứ, gốm Cậy từng được xếp ngang hàng với những làng gốm nổi tiếng: Bát Tràng, Phù Lãng, Chu Ðậu...


Nhưng giờ đây, nhắc đến gốm Cậy, nhiều người lại thấy tiếc nuối khôn nguôi.



Đặc trưng của gốm Cậy là hoa văn đắp nổi và nặn, chuốt bằng tay trên bàn xoay

Vàng son một thời   

Suốt một buổi sáng lang thang trong làng Cậy, xã Long Xuyên (Bình Giang), rất khó để tôi có thể tìm ra dấu hiệu chứng tỏ đây từng là một làng gốm nổi tiếng. Dọc con đường trục chính của thôn, thỉnh thoảng xuất hiện một vài cửa hàng bán tiểu sành, đồ sứ gia dụng nhập từ nơi khác về.

Làng Cậy giờ đây sầm uất. Xe ô - tô tải chạy rầm rập suốt ngày đêm. Tiếng máy xay, xát gạo không lúc nào dứt. Nhưng sự sầm uất đó lại không đến từ nghề gốm nổi danh một thời. Đó cũng là điều tiếc nuối đối với những người còn tâm huyết với nghề. Khi biết tôi có ý định tìm hiểu về nghề làm gốm theo lối cổ truyền của làng, bác Phạm Minh Đức, Trưởng thôn Cậy dẫn tôi đến nhà bác Vũ Xuân Năm, một trong 2 nghệ nhân của làng được phong tặng nghệ nhân gốm còn duy trì lối đốt lò cổ. Ngồi tiếp chuyện chúng tôi ngay bên cạnh chiếc lò bầu truyền thống, câu chuyện của bác Năm, bác Đức xoay quanh nghề gốm, ước mơ đưa nghề gốm và sản phẩm gốm của làng trở lại thời kỳ rực rỡ như xưa.



Sản xuất gốm theo kiểu công nghiệp ở làng Cậy

Theo hồi ức của mọi người thì thời kỳ rực rỡ của gốm Cậy cũng chưa xa là mấy, chỉ cách nay gần hai chục năm thôi. Đó là lúc sau cải cách, mở cửa, kinh tế tư nhân phát triển mạnh, làng đã khôi phục được trên 50 lò gốm với vài trăm thợ làm việc miệt mài suốt ngày đêm. Ngược thời gian, từ giữa thế kỷ 15 vào thời Quang Thuận (1460 - 1469) thuộc triều Lê Sơ, gốm Cậy đã hình thành và sau gần trăm năm định hình, thế kỷ 16, làng Cậy đã trở thành trung tâm sản xuất gốm phồn thịnh, xếp ngang hàng với gốm Phù Lãng, Bát Tràng, Chu Đậu và có chỗ đứng vững chắc trên bản đồ gốm cổ Việt Nam. Gốm Cậy hình thành và phát triển một phần dựa vào sông Sặt. Con sông này là món quà quý thiên nhiên ban tặng cho làng Cậy, bởi đây là con đường giao thương huyết mạch, đưa các sản phẩm của làng đi khắp các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Thời kỳ đầu, sông Sặt cũng là nơi cung cấp nguồn đất sét dồi dào để người làng Cậy tạo nên những sản phẩm dân dã nhưng cũng vô cùng khéo léo, độc đáo. Hình ảnh sông Sặt thơ mộng, hiền hòa cùng bến nước và các dãy hàng tấp nập bên bờ sông không dễ phai trong tâm trí những người già trong làng. Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu, gốm Cậy gồm 4 dòng chính là men xanh ngọc, men nâu, men trắng - xanh và men trắng hoa lam. Trong đó, gốm hoa lam là dòng sản phẩm chủ yếu, chiếm tới trên 80% loại hình. Gốm Cậy tập trung vào đồ dùng sinh hoạt hằng ngày như: ấm chén, bát, đĩa, lọ hoa với mô tuýp trang trí đơn giản, mộc mạc như hoa sen, cúc, mẫu đơn, hoa dây... Ngoài đồ dùng sinh hoạt, người thợ gốm làng Cậy còn làm nhiều đồ thờ tự như: lư hương, chân đèn với độ tinh xảo, tính mỹ thuật không thua kém sản phẩm của các làng gốm nổi tiếng khác. Sau một thời gian phát triển cực thịnh, từ giữa thế kỷ 17, gốm Cậy bắt đầu phai nhạt dần. Tuy nhiên, mạch gốm Cậy chưa bao giờ đứt. Trong làng vẫn còn người giỏi nghề và nghề gốm vẫn được truyền cho các thế hệ tiếp nối.   

Bây giờ vàng vọt

Ước mơ của bác Năm, bác Đức là một ngày nào đó, làng nghề trở lại nhộn nhịp như xưa, sản phẩm của làng được mọi người mua tìm. Tuy nhiên, hiện tại ước mơ đó có lẽ khó trở thành hiện thực, bởi: "Cả làng giờ chỉ còn tôi và con trai làm nghề theo lối cổ. Cùng được phong tặng nghệ nhân, nhưng bác Cửu đã mất cách đây mấy năm rồi. Cũng may là tôi theo hướng đi riêng, nên vẫn còn có nhiều việc để làm", bác Năm tâm sự. Anh Vũ Xuân Hùng (sinh năm 1982) là con trai của bác Năm đang hoàn thiện nốt những hoa văn trên chiếc đôn kê lọ, cũng tham gia câu chuyện: "Không phải ai cũng theo nghề được, bởi làm gốm theo lối cổ truyền rất mất công sức và thời gian. Đất nhập về phải phơi khô, giã nhỏ rồi hòa với nước để lọc bỏ tạp chất. Sau đó, người thợ phải ủ để đất dẻo rồi mới tạo dáng cho sản phẩm. Sản phẩm được người thợ sáng tạo bằng trí tưởng tượng bay bổng và đôi bàn tay tài hoa, nên chúng có những nét riêng không thể trộn lẫn. Đặc trưng của gốm Cậy là chuốt, nặn, vẽ bằng tay trên bàn xoay với nhiều họa tiết, hoa văn được đắp nổi. Mỗi sản phẩm được tạo ra với thời gian và tâm trạng khác nhau, nên nó mang trong mình cả tâm hồn của người thợ chứ không khô cứng như những sản phẩm được tạo bằng khuôn đúc sẵn". Là con trai của nghệ nhân có tiếng, được tiếp xúc với gốm Cậy từ bé, được đào tạo bài bản về chuyên ngành mỹ thuật công nghiệp, nên anh Hùng đã tạo ra nhiều sản phẩm mang hồn cốt gốm cổ. Chẳng thế mà xưởng của gia đình lúc nào cũng đông khách, chủ yếu là các đơn đặt hàng giả cổ và hàng mỹ nghệ.

Cũng duy trì lối đốt lò cổ với những sản phẩm phục chế các đình, chùa, đền tháp trong cả nước, anh Vũ Xuân Tuấn, con trai bác Năm mở một xưởng riêng cách xưởng của gia đình khá xa. Nếu như bác Năm đốt lò bầu, chuyên làm đồ giả cổ và đồ mỹ nghệ thì anh Tuấn lại đốt lò rồng với sản phẩm chính là gạch lát nền và hoa văn tháp cổ. Đến xưởng của anh Tuấn vào một ngày đầu hè khá oi ả, nhưng không khí làm việc vẫn tấp nập. Trong xưởng của gia đình, hai bên là hai lò rồng chứa đầy gạch vừa nung. Khoảng giữa sân là những viên gạch lớn, những mảng hoa văn phục chế tháp cổ vừa được tạo hình đang đợi khô. Anh Tuấn cùng một người thợ đang miệt mài hoàn thiện nốt những nét hoa văn trên bức phù điêu chân tháp. Anh cho biết: "Để sản phẩm mang đặc trưng gốm cổ, lò phải được đốt bằng củi. Đốt bằng củi đòi hỏi sự cần mẫn, khéo léo của người thợ để duy trì nhiệt độ của lò đều đặn. Mặc dù tỷ lệ thành công không cao, nhưng sản phẩm lại có nước men đẹp, giữ được hồn cốt của gốm xưa, đáp ứng nhu cầu phục chế hiện nay".



Cả làng Cậy giờ chỉ còn hai cha con ông Năm làm nghề theo lối cổ

Việc làm gốm theo lối truyền thống rất vất vả, nên cả làng Cậy chỉ còn cha con bác Năm vẫn duy trì cách làm này. Một vài hộ khác vẫn theo nghề cha ông, nhưng họ sản xuất theo kiểu hiện đại, sản phẩm làm bằng khuôn đúc rót, lò sắt đốt bằng ga, hoa văn công nghiệp... nên những sản phẩm này đã không còn hồn cốt gốm Cậy nữa. Mặc dù mỗi năm xưởng của bà Hoàng Thị Kiệm cung cấp ra thị trường hàng chục nghìn bộ ấm chén, nhưng điều đáng buồn là những sản phẩm này lại không thể đứng tên gốm Cậy, bởi: "Đầu mối đặt hàng rồi họ dán nhãn khác để giao cho khách. Nhiều khách không lấy hàng khi biết đó là gốm Cậy. Đã từ lâu, gốm Cậy không còn trong tâm thức của mọi người nữa rồi", bà Kiệm thở dài. Mấy năm trước, trong làng cũng còn một xưởng nữa chuyên sản xuất ấm chén theo lối công nghiệp, nhưng thời gian gần đây do không cạnh tranh được với hàng Trung Quốc và các làng gốm khác nên đã phải đóng cửa. Thế là cả làng gốm nổi danh một thời giờ chỉ còn vài nhà theo nghề.
Sự đổ bộ ồ ạt của đồ gốm sứ Trung Quốc đã quét sạch những cố gắng khôi phục nghề của những người thợ gốm làng Cậy. Nếu chỉ dựa vào tâm huyết của những người thợ trong làng, ước mơ khôi phục lại nghề làm gốm cổ truyền sẽ rất khó trở thành hiện thực.   

VỊ THỦY


(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    "Tiếng thở dài" của gốm Cậy