Kon Tum yên bình, mọi thứ diễn ra ở thành phố này nhẹ nhàng, khiến người ta lúc về mà lòng cứ vương vương, vấn vấn...

Đua thuyền trên sông Đăk Bla
Đăk Bla được hợp thành bởi các suối lớn Đăk Nghé, Đăk Sut, Đăk Côi, Đăk T’Re chảy qua huyện Kon Plông và còn một nhánh sông khác nữa, đó là sông Pô Cô bắt nguồn từ dãy núi ĐakGruGok (Quảng Nam) chảy theo hướng bắc -nam qua huyện Đăk Glei, Đăk Tô, Đăk Hà và gặp sông Đăk Bla ở phía tây nam thành phố rồi cùng đổ về phía tây, ôm gọn vào lòng mình thành phố Kon Tum nhỏ bé. Do sự bố trí địa hình phức tạp, có nhiều đoạn cua gấp khúc, lòng sông rộng nên đến mùa mưa lũ, nước từ thượng nguồn đổ về rất lớn. Trông dòng nước hung hãn như sẵn sàng nuốt chửng vào lòng mình tất cả những chướng ngại vật mà nó gặp phải. Tên con sông cũng bắt nguồn từ đây, Đăk Bla. Theo nghĩa của người Ba Na: Đăk là nước, Bla là hung hãn, tấn công.
Hội tụ nhiều cái nhấtThấp thoáng những ngôi làng nhỏ ẩn hiện bên thượng nguồn Đăk Bla là các buôn làng của người Ba Na: làng KonKơTu, KonJơRi, KonKlor…với sự duyên dáng nổi bật qua những mái nhà rông cao vút, sự thân thiện thể hiện qua những nụ cười đâu đó của các thiếu nữ đang gùi nước về buôn hoặc các em nhỏ vẫy tay chào khách tận mãi cuối con đường làng. Nơi đây bao thăng trầm của lịch sử đã xảy ra, đã đi qua nhưng còn đọng lại mãi mãi là lòng hiếu khách không vị lợi như một bản năng ngàn đời vẫn còn mãi...
Việc quan niệm về linh hồn và thế giới người chết là nét đặc trưng trong đời sống tâm linh của người dân nơi đây. Các lễ hội, truyền thuyết và thần thoại là cả một kho tàng văn học phong phú, sinh động và đầy tính nhân văn cũng như tinh thần thượng võ.
Ngày 19-5-1994, cầu treo Kon Klor đã hoàn thành, dài 292 m, rộng 4,5 m. Từ khi có cây cầu này, điều kiện sinh hoạt và diện tích canh tác của nhân dân trong vùng phát triển hẳn lên vì sự thuận tiện trong giao thông, chuyên chở. Đây là chiếc cầu treo to đẹp nhất khu vực Tây Nguyên, nối liền hai bờ của dòng sông Đăk Bla chảy ngược hiền hòa. Cầu treo Kon Klor có màu vàng cam thật nổi bật trong cái nắng vàng oi ả. Bao quanh Kon Klor là những ngọn núi được bao phủ bởi những nương dâu, vườn chuối xanh rì của người dân nơi đây. Cạnh cầu treo Kon Klor là nhà rông Kon Klor có chiều dài mặt nền 17 m, chiều rộng 6 m và chiều cao của nóc là 22 m. Nhà rông Kon Klor được coi là nhà rông lớn nhất Kon Tum và Tây Nguyên nói chung.
Tiếp tục xuôi dòng khoảng vài cây số, là chiếc cầu nối liền với quốc lộ 14 - cầu Đăk Bla dài 174,45 m, rộng hai làn xe chạy. Đây là cây cầu quan trọng nhất đối với tỉnh Kon Tum, nằm vào vị trí cửa ngõ của thành phố, được trang trí hình ảnh cồng chiêng dọc lan can, để gợi lên sắc thái Tây Nguyên như lúc nào cũng sẵn sàng tấu lên một điệu nhạc rộn rã thay cho lời chào mừng khách phương xa đến với thành phố trẻ Kon Tum.
Bên tả là ngục Kon Tum - di tích lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp, nơi đã từng giam giữ các chiến sĩ cách mạng, nay được tôn tạo để ngàn đời noi gương và tưởng nhớ. Vào thăm ngục, chúng ta sẽ bắt gặp ngay hai ngôi mộ chung đặt song song. Tất cả chỉ có thế nhưng ẩn chứa bên trong là một kỳ tích anh hùng. Ngày 12-12-1931, thực dân Pháp và tay sai dưới sự chỉ huy của viên đội Moulec, đã buộc 40 tù chính trị, đa số là những chiến sĩ cộng sản bị đàn áp trong phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, đi lao động khổ sai, làm đường ở vùng Đăk Pét, một nơi nổi tiếng là rừng thiêng, nước độc (trong cuộc đi trước có 295 người tù khi về chỉ còn 80 người sống sót).Vì vậy, toàn bộ tù chính trị đã đấu tranh không chịu đi. Lính Pháp và tay sai đã nổ súng đàn áp dã man làm cho 8 người tù bị chết và 8 người tù bị thương. Sau vụ đàn áp đó, tinh thần các chiến sĩ cách mạng dâng cao và họ đã thực hiện cuộc biểu tình tuyệt thực từ ngày 12 đến 16-12-1931 để chống đối thực dân Pháp và tay sai. Thế là cuộc đấu tranh đẫm máu đã xảy ra lần thứ hai: Vào lúc 7 giờ sáng ngày 16-12-1931, các sĩ quan Pháp và tay sai súng đạn đầy đủ, chĩa súng vào nhà lao. Anh giáo Thuyên - một người tù trông thấy chúng liền đứng dậy la lớn “Anh em ơi! Chúng đến đây rồi”, vừa nói dứt câu, người tù dũng cảm đã ngã xuống, anh đã bị bắn chết ngay lập tức. Tiếp đến, bọn sĩ quan và binh lính đã nã đạn không thương tiếc vào trong nhà lao, làm 7 người chết và 7 người bị thương. Sau khi đàn áp, lính Pháp mang thi hài các chiến sĩ ra chôn chung trong một cái hố. Sau khi đất nước thống nhất, chính quyền địa phương đã quy tập, tôn tạo, chỉnh trang lại, xây thành hai ngôi mộ gần nhau. Một ngôi của các chiến sĩ tù phạm hy sinh trong cuộc đấu tranh lưu huyết ngày 12-12-1931, một ngôi mộ của các chiến sĩ tù phạm hy sinh trong cuộc đấu tranh tuyệt thực ngày 16-12-1931 như đã có hiện nay.
Hữu ngạn là nhà máy đường Kon Tum. Đây là nhà máy có quy mô lớn, đi vào hoạt động từ cuối năm 1996. Cuộc sống ở đây thật sự nhộn nhịp, sôi động hẳn lên khi vào mùa thu hoạch mía, hàng trăm công nhân ngày đêm miệt mài làm việc.
Dọc theo bờ hữu ngạn là các làng: PleiTơNghia, PleiDon, KonRơBàng, KonHngorKoTu...(làng cây cầy, làng gò cao, làng đất bằng, làng hoang...). Đến đây ta có cảm giác như đang nghe đâu đây những bản trường ca người khổng lồ xây núi, đào sông và những tiếng hú vang dội cả núi rừng, tiếng rì rầm như lời cầu nguyện cho vụ mùa tốt tươi... Tất cả những điều đó được lưu truyền từ mái nhà rông cao vút, từ phong tục, từ tấm lòng hiếu khách của người Ba Na Rơ Ngao. Đến với nhà rông là ta đang đến với những điều đơn sơ hiện tại pha với nét thần thoại từ ngàn xưa hiện về.
Sắc màu Tây NguyênQua khỏi vùng người Ba Na định cư, đất chợt chuyển màu từ màu trắng sạch sẽ sang màu đỏ bazan nồng nàn màu mỡ cùng lúc với nhịp chảy của dòng sông đưa ta vào vùng Yachim, vùng của người ARáp - một nhóm địa phương của người JaRai. Sở dĩ có tên gọi ARáp vì tại khu vực cư trú của họ có một ngọn núi cao, tên của ngọn núi lớn đó được gọi theo tên của con voi ARáp thiêng có 4 ngà mà các huyền thoại của người JaRai hay nhắc đến.
Trong cuộc sống đời thường, người JaRai rất chân thật và chất phác. Vào thăm làng của họ, ta sẽ thấy được lòng mến khách với các lễ cúng lúa, tế thần mùa màng, cử kiêng, làm ta nhớ lại một thời hồng hoang mà vết tích còn lại qua các cây nêu như một gợi nhớ tượng trưng cho những nét sinh hoạt xa xưa hơn là một tín ngưỡng. Đặc biệt đến đây ta sẽ bắt gặp nhiều làng có quần thể kiến trúc nhà mồ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đối với họ, chết là chuyển từ hình thức sống sang một cõi khác, một thế giới khác nên cảm xúc của họ trong đám tang không chỉ khóc lóc, tiếc thương mà còn bày tỏ sự tin tưởng, niềm hy vọng rằng người chết được tiếp tục tồn tại trong thế giới khác chứ không phải hoàn toàn mất đi. Một trong những cách bày tỏ niềm tin ấy được bộc lộ rõ nét qua thời gian trước lễ bỏ mả (Nhum pơ thi): Khi chôn cất người chết xong, họ tin rằng người chết chưa đi xa, vẫn còn hiện hữu nơi mồ, vẫn còn cần thiết những nhu cầu thường ngày như người sống, nên người thân thường đem cơm, nước, thuốc hút, trái cây đến đặt trên phần mộ người chết và thăm viếng thường xuyên.
Rời vùng đất của người JaRai, ta tiếp tục xuôi theo dòng nước. Đập vào mắt là tập hợp đủ các gam màu xanh đa dạng: Nào là xanh thẫm của rừng cao su, cà phê, xanh non của lúa rẫy, xanh biêng biếc của những ruộng ngô, xanh bạc của sắn và thấp thoáng xa xa là những ngôi làng định cư của vùng bán ngập lòng hồ Plei Krông. Tất cả như một bức tranh thủy mặc tạo nên cảm giác yên bình no đủ của một vùng. Chưa kịp để lý trí quay về với thực tại, trước mặt hiện ra một lòng hồ rộng lớn mênh mông, trời với nước pha lẫn một màu xanh êm dịu. Ta đang về thăm công trình thủy điện Ya Ly với công suất 720MW, điện lượng bình quân 3,68 tỷ KWh/năm. Đến với công trình mới thấy được ý Đảng, lòng dân đồng lòng nên mới tạo ra một công trình lớn của thập kỷ 90 và là công trình thỏa mãn khát vọng của người dân Tây Nguyên.
Dòng Đăk Bla tiếp tục chảy, hòa mình vào dòng sông Mê Kông huyền thoại. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, lại reo vui khi được quay về dải đất mẹ thân thương, mang phù sa bồi lấp cho những cánh đồng thêm tươi tốt và tưới mát vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long trước khi hòa mình vào biển lớn.
TƯỜNG LAM