"Các trường đại học gần đây bắt đầu đòi hỏi quyền tự chủ, nhưng trào lưu này ở Việt Nam đúng thì ít, sai nhiều hơn, mà nhiều nhất là nhầm lẫn".
Đây là ý kiến tham luận của ông Châu Quang Dương, giảng viên Đại học SUNY Albany - Mỹ gửi tới tại hội thảo "Tự chủ trong giáo dục đại học - từ chính sách đến thực tiễn" do Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh Thiếu niên- Nhi đồng của Quốc hội tổ chức mới đây. Xin lược trích một số lập luận của ông Châu Quang Dương:
Tự chủ đại học là vấn đề liên quan sâu rộng đến nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. Ở bài viết này, tôi chỉ tập trung vào vấn đề tự chủ của các đại học công lập.
Một đúng
Cái đúng duy nhất là các đòi hỏi kêu gọi tự chủ đại học xuất hiện rất đúng thời điểm và nhờ vậy, nhanh chóng nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ xã hội: Giới lãnh đạo trường, giới nghiên cứu, phần đông dư luận, và ngay cả nhiều nhà hoạch định chính sách.
Các chính sách đầu tiên về tự chủ đại học được GS Trần Hồng Quân đề xuất từ cuối thập niên 1980, trong thời gian ông làm Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Tuy nhiên, các chính sách này đều gây ra tranh cãi, thậm chí là chống đối, vì vậy nhiều chính sách không sống sót được sau nhiệm kỳ của vị Bộ trưởng đã khai sinh ra chúng.
Giờ đây, sau nhiều năm hội nhập, chúng ta tiếp xúc với các tư tưởng quản trị mới và họ là những người đang nuôi dưỡng trào lưu tự chủ đại học ở Việt Nam. Xét cho cùng thì tự chủ đại học là một bước đi tất yếu của các nền giáo dục đại học trên thế giới.
Và nhiều nhầm lẫn
Cả hai cái sai ở trên đều xuất phát từ việc tiếp nhận không đầy đủ các ý tưởng về tự chủ đại học của phương Tây, nhất là Mỹ - nước mà các nhóm ủng hộ tự chủ đại học Việt Nam hiện nay tham khảo nhiều nhất, để rồi cũng có nhiều ngộ nhận nhất. Xin nêu ra ví dụ liên quan đến hội đồng trường, một trong những chính sách được cho là cốt lõi của trào lưu tự chủ đại học Việt Nam hiện nay.
Ở Mỹ, chỉ các đại học tư thục phi lợi nhuận mới lựa chọn phần lớn các thành viên hội đồng trường thông qua bầu cử - còn tại đa số các đại học công lập, phần lớn hội đồng này là do chính quyền bang bổ nhiệm. Khi về đến Việt Nam, khái niệm hội đồng trường thường được hiểu rằng hội đồng trường cần phải thông qua bầu cử.
Vì thế, Luật Giáo dục Đại học sửa đổi 2018, dưới áp lực của trào lưu tự chủ đại học, đã quy định rằng một số lượng đáng kể thành viên hội đồng trường của đại học công lập được lựa chọn thông qua bầu cử. Nói cách khác, các nhóm kêu gọi tự chủ đại học Việt Nam đã đem mô hình tự chủ của đại học tư thục phi lợi nhuận Mỹ áp vào mô hình tự chủ của đại học công lập Việt Nam, trong khi hai loại trường này rất khác nhau tại Mỹ.
Việc một trường đại học công lập tự chủ tài chính gần đây có những tiến bộ nhất định trong hoạt động nghiên cứu khoa học và có những thứ hạng cao trong các bảng xếp hạng trong và ngoài nước đã làm nhiều người khẳng định rằng tự chủ đại học mang lại chất lượng. Đây là một nhận định nhầm lẫn!
Tự chủ đúng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy chất lượng. Nhưng đây không phải là yếu tố duy nhất – và cũng không chắc là yếu tố quan trọng nhất – quyết định chất lượng. Điều mà chúng ta có thể kết luận là: Các chính sách tự chủ đúng đắn sẽ tạo ra một bệ phóng cho trường đại học phát triển. Và các bạn đã nghe đến nhiều vụ phóng tên lửa thất bại rồi chứ?
Xây nhà từ móng
Tôi nghĩ trào lưu tự chủ đại học sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhiều khả năng kết quả sẽ chỉ dừng lại ở các mục tiêu tài chính, thậm chí sẽ có nguy cơ cản trở các mục tiêu khác cốt lõi hơn: Tự do nghiên cứu, tự do giảng dạy, tự do học tập...
Vì thế, tôi cho rằng nhà nước cần tích cực hơn với vai trò “trọng tài lâm thời”: Trước khi giao quyền tự chủ, nhà nước cần buộc các trường phải công khai kế hoạch hành động nhằm khuyến khích giảng viên và sinh viên tham gia vào việc quản trị trường, và đồng thời tham gia giám sát việc thực thi các kế hoạch này. Chỉ khi nào chạm đến được giảng viên và sinh viên thì khi đó tự chủ đại học mới đi đúng hướng và mới bền vững.
Bên cạnh đó, các thầy cô cũng có thể góp phần đưa trào lưu tự chủ đại học Việt Nam trở về đúng ý nghĩa của nó bằng cách hãy cùng sinh viên thay đổi cách tư duy, cách học – bắt đầu từ việc thực hành tư duy phản biện. Chỉ khi nào sinh viên và thầy cô có khả năng suy nghĩ độc lập thì khi đó, các đại học mới có thể tự quản được. Và việc thực hành tư duy phản biện thì chưa cần đến một cải cách tài chính cực đoan như hiện nay.
Các tổ chức xã hội và doanh nghiệp cũng có thể đóng góp cho quá trình tự chủ bằng cách tạo điều kiện – thậm chí là thúc ép, bắt buộc - giáo viên và sinh viên tiếp cận và thực hành tư duy phản biện.
May mắn thay, hiện nay, Việt Nam cũng đã bắt đầu chú ý nhiều đến tư duy phản biện/giáo dục khai phóng, và đây là một điều kiện thuận lợi có thể hỗ trợ tốt cho xu hướng tự chủ đại học.
Theo VTC