Thuở trước, mỗi khi gió rét mùa đông về là đem bao nỗi kinh hoàng cho người quê tôi. Gió bấc gào rít như có bàn tay của phù thủy xé bung liếp lá cửa nhà. Lũy tre làng còng lưng đỡ gió cũng không che nổi mái rạ xác xơ và bụng đói cật rét của dân làng. Đồng ruộng vào mùa đông hoang vắng như chưa bao giờ có vết chân người. Gió cào lên từng đợt, cỏ cháy vàng vật vã trong mưa. Lá má, củ chuối độn cơm cháo cũng không còn đủ bữa. Đói cộng với rét chết người. Những đám ma chỉ dăm bảy người kéo vội xác chết bó trong manh chiếu chạy nhanh như ma đuổi trong chiều hoàng hôn chạng vạng u ám với đàn quạ kêu xé lòng. Ấy là mùa đông những năm trước Cách mạng Tháng Tám 1945 của thế kỷ trước.
Còn bây giờ thì khác xa trời vực. Dân quê tôi có ruộng trong tay háo hức chờ vụ đông như đón mùa lễ hội. Những cánh đồng huyền thoại xưa nguyên những cái tên cổ từ lúc khai sinh: Đồng Lau, Đồng Sậy, Bãi Vạc, Bãi Cò...đã trải qua mấy vạn mùa đông heo hút nay rộn ràng khí thế mong heo may về cho vụ đông ra vàng ra bạc.
Bắt đầu từ khi gặt lúa sớm để làm đất. Có gió mùa đông bắc mới làm khô đồng đất để máy cày bừa reo vui trên đồng, để những người nông dân áo màu phấp phới tay cuốc tay cào làm luống cấp tập, thi với thời gian để kịp đặt cây hành cây tỏi, mậm khoai và gieo hạt rau đủ loại, bứng những bồng cà chua cây vừa tỏ tán lá đặt lên luống đất tơi xốp.
Lỡ làng khi mùa đông đến vẫn còn ào ào những đợt nồm nam và dòng nước mắt muộn mằn của vợ chồng Ngâu tháng trước đoái lại, nước dềnh lên mặt ruộng. Biết có khó khăn đấy nhưng cũng chẳng ngán ngại gì đâu. Tiếng gọi vụ đông vẫn vang trên đồng. Người cày người cuốc quàng áo tơi trên mình, chân tay đều có ủng tất, xới, vằm, vớt bùn đất làm luống. Có vất vả vẫn cứ chạy theo bám sát thời vụ. Chẳng mấy trên cánh đồng đã bạt ngàn màu xanh. Màu xanh thoáng trên mặt rạ của hành tỏi, xanh non tơ của rau cải, rau xà lách, mùi thơm bên mép luống. Heo may lướt nhẹ rung rinh những giọt nắng đông ngọt ngào đằm thắm trên đồng làm tình quê xốn xang biết mấy.
Cũng có lúc hanh hao kéo dài làm cho cây hành, cây tỏi kẹt rễ là lúc người nông dân quê tôi thèm có chút gió nồm mưa nhẹ đủ lượt nước tưới, đất ẩm cho cây phát triển.
Chẳng may những đợt gió nồm, mưa lớn kéo dài, gió cuộn làm cho cây hành, cây tỏi bướt lá, nhất là khi cây hành tỏi trưởng thành bắt đầu xuống củ lại càng tai hại. Hành đổ rập, thối nhũn, cả cánh đồng nồng nực mùi hành, lúc này người nông dân quê tôi lại mong có gió rét để vớt vát. Ngần ấy cánh đồng có biết bao là tiền của đổ ra. Cho nên mong lắm cái rét mùa đông.
Thấp thỏm suốt ba tháng mùa đông, lúc nào cũng: "Trông trời trông đất, trông mây/ Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm" cho đến khi bỏ tiền vào túi mới yên tấm lòng.
Trời như thấu hiểu lòng người quê tôi, mưa giông chỉ thoáng qua một buổi thử lòng nhau để rồi bừng nắng, gió heo may lại ào trở lại. Thứ gió rét cứu cho vụ đông thoát khỏi nỗi buồn. Tiếng cười lại giòn tan, lan tỏa từ đồng xa đến đồng gần. Áo màu thấp thoáng, trên vai nhũng nhẵng quang thùng, lân cho hành tỏi, đạm tưới cho rau, thuốc chống sương muối, chống bệnh thối nhũn...
Cứ thế, hành tỏi xoay củ, rau dưa bìa luống đượm màu xanh ngọt.
Tháng một chạp gió bấc vẫn ào ào khô hanh khi thân lá hành tỏi teo tóp đã trút hết sinh lực dồn xuống cho củ tròn xoay vỏ bóng màu cánh gián, khi những thân cây rau dưa đã xuống đậm màu xanh ngả màu phơn phớt vàng, khi trên dàn, cà chua đỏ mọng lủng lẳng, khi những mặt luống khoai nứt rạn bởi vồng củ vàng óng màu mật ong đội lên... là mùa thu hoạch. Nông dân quê tôi tấp nập nhổ hành tỏi, chặt rau dưa, bới khoai tây tấp nập. Xe tải đứng đợi trên đường, khách hàng xuống tận ruộng nắn từng củ hành, so từng ruộng mà ngã giá. Còn rau dưa lên xe tay kéo về sân, bãi rộng hoặc về chợ đầu mối xếp thành sọt vật lên xe tải. Tiền chẵn mới khửng giao nhau từng xếp, từng xếp. Tiếng cười nói vang dậy cả một vùng, thâu sáng, thâu chiều. Đó là tiếng cười vụ đông quê tôi, tiếng cười thắng lớn. Một sào hành tỏi năm sáu tạ tươi thường cho dăm triệu, nếu để khô thì mươi triệu ngon thơm. Có nhà tới bảy tám sào, thậm chí cả mẫu. Hành giống vụ này sáu bảy mươi nghìn một cân. Có nhà thu hành bán giống cả trăm triệu. Vụ đông như thế làm sao chả giàu.
Tiền của vụ đông nhằm vào nuôi con đại học, nâng nhà thêm tầng hai, tầng ba, sắm xe bốn năm chục triệu, máy làm đất, máy gặt, máy bơm... thực hiện những dự định từ nhiều năm trước chờ đến vụ đông này.
Nhưng cái quý giá của vụ đông còn ở chỗ khác kia. Đó là nền đất xốp đậm chất khoáng do vụ đông để lại cho vụ tới phơi phới cánh đồng lúa xuân.
Ôi vẫn là cái rét mùa đông, gió đều thổi từ hướng đông bắc về, nhiệt độ thấp... Cũng là đất là nước trên Đồng Lau, Bãi Cò... quê tôi nhưng mỗi thời mỗi khác. Thời đổi mới vụ đông cho ra vàng ra bạc, bữa cơm tấm áo, tiếng cười mùa đông ấm áp rộn rã lạ thường.
Tản bút của NGUYỄN LONG NHIÊM