Thể loại "thính phòng" đặc thù của Nam Bộ

09/12/2013 10:08

Ngày 5-12, nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ đã chính thức được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.



Nghệ thuật đờn ca tài tử chú ý nhạc khí hơn lời ca

Đờn ca tài tử Nam Bộ là một dòng nhạc dân tộc của Việt Nam, bắt nguồn từ nhạc lễ, nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian. Đây là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ, là nghệ thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên nam nữ nông thôn Nam Bộ hát ca sau những giờ lao động.

Về trang phục, những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau nên thường chỉ mặc các loại thường phục khi tham gia trình diễn. Khi nào diễn ở đình, miếu hoặc trên sân khấu họ mới mặc các trang phục biểu diễn. Theo các bậc thầy trong nghề, đờn ca tài tử hình thành vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, xuất phát từ những nhạc sĩ, nhạc quan của triều Nguyễn theo phong trào Cần Vương vào Nam đem theo truyền thống ca Huế. Trên đường đi, họ dừng chân ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, từ đó Ca Huế mang thêm chút âm hưởng xứ Quảng. Có người nói, khi vào đến miền Nam, đờn ca tài tử không còn giữ nguyên chất ca Huế mà thay đổi rất nhiều để thích nghi theo thị hiếu, thẩm mỹ phù hợp với nếp sống mới.

Những con người tháo vát, đầy sáng tạo tuy đã tìm thấy một cuộc sống an lành khi đến với vùng đất màu mỡ, nhưng do lòng luôn thương nhớ cội nguồn nên trong các điệu, các hơi của đờn ca tài tử thường thích những điệu có phảng phất nỗi u buồn. Trong khi phong cách miền Trung vẫn giữ theo truyền thống một cách chặt chẽ thì ở miền Nam lại phóng khoáng và bay bướm, nét nhạc cũng như tiết tấu thay đổi tùy lúc, tùy người.

Trước đây cũng như bây giờ, người đàn tài tử “chính thống” hễ vui thì đàn chơi còn không hứng thì thôi, khó ai có thể bỏ tiền ra mua được tiếng đàn của họ. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà trình độ nghệ thuật của đàn tài tử lại thấp. Muốn trở thành người đàn tài tử đúng nghĩa phải trải qua thời gian tập luyện khá công phu, học từ chữ nhấn, chữ chuyền, rao sao cho mùi, sắp chữ sao cho đẹp và luôn tạo cho mình một phong cách riêng.

Nhạc khí dùng trong đờn ca tài tử là đàn kìm (đàn nguyệt) và đàn tranh. Theo truyền thống, ít khi nhạc công độc tấu mà thường song tấu đàn kìm và đàn tranh với tiếng thổ pha tiếng kim, hoặc tam tấu (kìm, tranh, cò). Đôi khi có ống sáo ngang hay ống tiêu thổi dọc. Và đặc biệt là song lang (nghĩa là hai thanh tre già - có người gọi là song loan) để đánh nhịp. Ngoài ra còn có các nhạc khí khác như đờn sến, đờn gáo, đờn độc huyền, đờn tỳ bà nhưng ít thông dụng. Từ khoảng năm 1930, có thêm những nhạc khí phương Tây như vi-ô-lông, măng-đô-lin khoét phím, ghi-ta Tây Ban Nha được chỉnh lại, thường gọi là ghi-ta phím lõm.

Khác với ca trù miền Bắc hay ca Huế miền Trung mà lời ca quan trọng hơn tiếng đàn, trong đờn ca tài tử dàn nhạc lại được chú ý hơn tiếng ca. Người nghe chú trọng vào chữ đàn nhấn có gân, cách sắp chữ, sắp câu duyên dáng, cách xuống câu đến xang, hò, xề... ngọt ngào uyển chuyển; cách đàn câu thòng, câu nhồi, câu lợi bay bướm, đa dạng.

Nghệ thuật trong đờn ca tài tử là khi “rao” khác hẳn với những bài “dạo” của miền Trung luôn có nét nhạc cố định, câu “rao” theo truyền thống miền Nam phóng túng hơn nhiều. Mỗi người thầy có một cách rao, lúc đầu người học đàn theo cách của thầy, nhưng khi đạt đến mức nghệ thuật khá cao thì được phép sáng tạo những câu rao của riêng mình. Đặc biệt cách phát triển và vận hành giai điệu trong đờn ca tài tử tuân theo những nguyên tắc của dịch lý, một triết lý sống trong xã hội người Việt nói riêng và người vùng Đông Á nói chung.

Đờn ca tài tử có 20 bài tổ, tuy không phải người đờn ca tài tử nào cũng thuộc đầy đủ hay khi hòa đàn cũng không bắt buộc phải chơi hết 20 bài, nhưng các nghệ sĩ đều phải biết tên các bài đó, bao gồm 6 bài Bắc, 3 bài Nam, 4 bài Oán và 7 bài lớn. Ngoài ra còn có rất nhiều bài bản khác được dùng, trong đó vọng cổ 32 nhịp là thông dụng nhất.

Đờn ca tài tử thực sự là một hiện tượng lớn của âm nhạc Việt Nam trong thời cận - hiện đại. Ở đó không chỉ có sự kế thừa, gìn giữ trong tinh thần tự tin, tự hào với di sản văn hóa nghệ thuật cổ truyền của dân tộc, mà còn có sự tiếp nối, phát triển với sức năng động lớn lao - không ngừng đổi mới, tiếp thu và dân tộc hóa những yếu tố mới để thích ứng với thời đại.

CÔNG HẢI


(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Thể loại "thính phòng" đặc thù của Nam Bộ