Xuân về, Tết đến, người người có nhiều điều để suy ngẫm, còn nhiều việc để làm.
Ảnh minh họa
Mãi đến giờ phút trang trọng, thiêng liêng nhất là giao thừa, ta dọn mình thật sạch, lắng hồn thật trong để tế cáo trời đất, kính trình tổ tiên. Thời khắc ấy, chợt nhớ lại đôi câu đối Tết của người xưa mà ngẫm nghĩ rồi tự vui với chính mình.
Trước tiên nghĩ đến danh nhân Nguyễn Khuyến, dằng dặc giai thoại về cách ứng xử, quan hệ người với người, nhất là lúc cụ đã cáo lão mà vẫn day dứt “Đề vào hai chữ trong bia/Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”. Học cái nhân hậu mà sâu sắc qua câu đối: "Tứ thời bát tiết, canh chung thủy/Ngạn liễu đôi bồ, dục điểm trang". Hiểu nôm na theo nghĩa Hán tự: "Bốn mùa tám tiết đi rồi trở lại. Dặm liễu, đám bồ muốn điểm trang (khoe sắc)". Khí vị triết học như ngụ ý gì đây? Vòng tuần hoàn đất trời, xuân đi rồi xuân lại đến làm vạn vật bừng sáng, khai sinh sức sống mới tinh khôi sau những ngày đông giá. Lòng người vụt dậy niềm lạc quan trong năm mới, vận hội mới, hân hoan chúc tụng nhau mọi điều tốt lành. Bác học quá! Nhưng tương truyền câu đối này, Nguyễn Khuyến đề tặng cho người hàng xóm bán thịt lợn. Nếu thế thì có ý nghĩa gì đối với người được nhận? Nếu không ngập ngừng vì dấu phẩy mà đi liền một mạch sẽ nhận ra: bát tiết canh - đôi bồ dục (quả cật).
Đó là món quà thi thoảng người hàng xóm thịt lợn mang sang biếu cụ để bày tỏ lòng kính trọng, thắt chặt tình làng nghĩa xóm. Có đi có lại nên cụ mới tặng anh ta câu đối nhân dịp Tết đến là vậy. Chắc là vợ chồng anh thịt lợn vui lắm, hãnh diện lắm vì được danh nhân Nguyễn Khuyến tặng mình câu đối, gởi gắm nghĩa tình, quan tâm công việc thường ngày của anh ta. Kể chi nhịp điệu, sá gì Hán tự, chỉ biết rằng: bát tiết canh - đôi quả cật, thế là sung sướng lắm rồi! Thật hóm hỉnh mà sâu sắc. Càng ngẫm nghĩ càng vui lây niềm vui người nhận - người cho.
Càng thêm bội phần kính phục bởi “trí”, “tâm”, “tình” của Tam Nguyên Yên Đỗ: Hán với Nôm, triết học với đời thường, bác học với dân dã; vừa trịnh trọng vừa đùa vui thân tình. Tất thảy đều hòa hợp ở bậc đại quan khi trở về nơi “vườn Bùi chốn cũ”. Không biết hậu thế, mấy ai có được phong cách sống như Nguyễn Khuyến xưa?
Tiếp đến, không thể không tự cười vì cảm quan thô thiển chính mình khi nghĩ về câu đối của nữ sĩ Hồ Xuân Hương: "Tối ba mươi, khép cánh càn khôn, đóng chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới/Sáng mồng một, lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào". Lại thêm một lần rối rắm về lớp nghĩa thanh tao trong “tục” mà không “tĩu” ở phong cách bà chúa thơ Nôm. Nghĩa của câu đối như lời dặn dò, nhắc nhở cảnh đón xuân của người thiếu nữ. Hãy cẩn trọng, canh chừng “kẻo ma vương đưa quỷ tới”. Hãy dọn mình thật trong, thật sáng để đón xuân sang. Nhưng sao cứ ỡm ờ, úp mở “cánh càn khôn”, “then tạo hóa” ban tặng người thiếu nữ. Ngỗ nghịch và ngạo nghễ, mạnh bạo và cương cường. Dám đem cái “thiếu nữ” mà chống chọi với “ma vương”, dám đem thân nữ nhi mà sánh ngang trời đất. Người thiếu nữ trẻ trung với tâm hồn rộng mở cùng đất trời, tạo hóa mở lòng mình đến mọi người, bè bạn muôn nơi khắp chốn. Thật trong sáng, thật tràn trề sức sống, đáo để thật! Niềm hân hoan, rạo rực, phơi phới hồn người Việt đón xuân là vậy.
Cuối cùng, không quên nhắc đến ẩm thực, văn hóa mà không người Việt nào không biết đến: "Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh". Sắc màu trắng, xanh, đỏ thật bắt mắt, kích thích thị giác, vị giác. Người đời ngày nay chạnh lòng phân vân có còn nguyên “thịt mỡ” không, hay toàn là “siêu nạc, siêu thịt”. Ngày nay viết câu đối không chỉ riêng “ông đồ xưa” mà nhân rộng mọi thành phần, mọi giới. Hình ảnh “ông đồ trẻ” thảo những nét chữ thư pháp cũng thật tài hoa, mạch ngầm văn hóa vẫn duy trì phát triển, chảy mãi trong lòng dân tộc. Điều còn lưu luyến, vương vấn nhất là hình ảnh “cây nêu” ngày Tết đã khuất bóng. Đó là biểu tượng xua đuổi “tà ma, quỷ dữ”, khẳng định chủ quyền gia chủ. Không sao, đã có hình ảnh khác thay vào thiêng liêng hơn, rộng lớn hơn như cột mốc chủ quyền nhà - nước, quốc gia - dân tộc, hình ảnh cờ đỏ sao vàng, hồn đất nước luôn hiện hữu, trường tồn trong lòng dân Việt.
TRANG LỘC