Hỏi: Tôi là công dân Việt Nam vừa lấy chồng Đài Loan. Nay tôi đang làm thủ tục xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch Đài Loan. Xin hỏi sau khi thôi quốc tịch Việt Nam thì những tài sản trước đây của tôi ở Việt Nam (bao gồm cổ phiếu, đất đai…) có còn thuộc sở hữu của tôi không?
VŨ MINH ANH (Thanh Hà)
Trả lời: Theo điều 172 và 173 Bộ luật Dân sự năm 2005, tài sản gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Điều 175 quy định quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ. Như vậy, quyền sở hữu tài sản của công dân Việt Nam luôn được pháp luật bảo vệ, dù họ ở trong hay ngoài nước.
Hơn nữa, công dân Việt Nam sau khi thôi quốc tịch Việt Nam thì được coi là người nước ngoài gốc Việt Nam. Theo quy định tại điều 833 Bộ luật Dân sự 2005, quan hệ sở hữu tài sản của đối tượng này được điều chỉnh theo pháp luật của nước nơi có tài sản. Như vậy, đối với tài sản ở Việt Nam của người nước ngoài gốc Việt Nam, các quan hệ về sở hữu được điều chỉnh theo pháp luật Việt Nam.
Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành không có điều nào quy định hậu quả pháp lý của việc thôi quốc tịch Việt Nam là sự mất quyền sở hữu đối với tài sản ở Việt Nam, kể cả đối với bất động sản. Như vậy về nguyên tắc, người nước ngoài gốc Việt Nam không bị mất quyền sở hữu đối với tài sản ở Việt Nam.
Để bảo đảm tối đa hóa quyền và lợi ích của mình, thì có thể giao tài sản của mình cho một người đáng tin cậy hoặc người thân quản lý.