Theo Trung tướng Tô Lâm, việc phi chính trị hóa lực lượng vũ trang sẽ mắc phải mưu kế tác động của thế lựcthù địch với đất nước, chế độ.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chịu sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử. (Nguồn: TTXVN)
Hải Dương online giới thiệu bài viết của Trungtướng, phó giáo sư-tiến sĩ Tô Lâm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an,góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 với nhan đề: "Cơ sở khoa học của cácquy định về lực lượng vũ trang nhân dân trong Dự thảo sửa đổi Hiến phápnăm 1992":
Chế định bảo vệ Tổ quốclà một vấn đề quan trọng trong lịch sử lập hiến của Nhà nước. Tất cả cácbản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam từ trước đến nay (Hiến pháp cácnăm 1946, 1959, 1980, 1992) đều quy định nội dung: Bảo vệ Tổ quốc lànghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân Việt Nam.
Các quy định về lựclượng vũ trang nhân dân - lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổquốc được quy định trực tiếp trong các bản Hiến pháp Việt Nam các năm1980, 1992 và tiếp tục được ghi nhận trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm1992.
Dư luận trong và ngoài nước đã và đang đặc biệt quan tâm bìnhluận về các nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trong đó cónội dung quy định về Bảo vệ Tổ quốc, nhất là về bản chất, vai trò, vịtrí, chức năng của lực lượng vũ trang nhân dân, xung quanh vấn đề này,còn có các ý kiến khác nhau, nhưng tựu chung lại có hai loại ý kiến sau:
Một là, thống nhất, tán thành các nội dung quy địnhvề lực lượng vũ trang mà Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thể hiện;khẳng định sự cần thiết quy định về bản chất cách mạng, tính chính trịcủa lực lượng vũ trang - trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với ĐảngCộng sản Việt Nam và chế độ Xã hội chủ nghĩa.
Hai là,không cần thiết quy định cụ thể như sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về lựclượng vũ trang; cần phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, cũng như cầnthực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng, xóa bỏ quy định về sựlãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam với Nhà nước và xã hội.
Để góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quy định về lực lượng vũtrang nhân dân trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, xin được traođổi một số vấn đề sau:
1. Vai trò, vị trí của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nhìn từ góc độ lịch sử Việt Nam chúng ta có lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước quahàng ngàn năm - là quốc gia thường xuyên phải đấu tranh khốc liệt để bảovệ không gian sinh tồn trước các âm mưu xâm lược và cai trị từ bênngoài.
Cùng với việc huy động sức mạnh toàn dân, thực hiện kháng chiếntoàn dân khi đất nước bị xâm lăng với phương châm “giặc đến nhà đàn bàcũng đánh,” thì việc tổ chức các lực lượng vũ trang chuyên nghiệp, chủlực để đối phó với kẻ thù bên ngoài và bảo đảm an ninh trật tự xã hộitrong nước luôn là một trong những vấn đề có tính chiến lược, căn bản màcác nhà lãnh đạo, các triều đại từ xưa đến nay đều phải thực hiện.
Cóthể nói, bài học lịch sử về dựng nước phải đi đôi với giữ nước, xâydựng, phát triển đất nước phải đi liền, gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc cònvẹn nguyên giá trị. Vì vậy, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đưa cácquy định về bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dântrong chế định Bảo vệ Tổ quốc là có cơ sở lịch sử vững chắc, là sự kếthừa và khẳng định những giá trị được chính thực tiễn vận động và pháttriển trong suốt chiều dài lịnh sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Namkiểm nghiệm.
2. Bản chất, vai trò lực lượng vũ trang dưới góc độ tổ chức quyền lực chính trị và bảo vệ quyền lực chính trị Sự hình thành, tồn tại và phát triển của mỗi chính thể, mỗi chế độ xãhội luôn gắn với hệ tư tưởng-chính trị và các thiết chế tương ứng củalực lượng tiên tiến, quyết định đến sự vận động, biến đổi của xã hộitrong những giai đoạn lịch sử ở mỗi quốc gia nhất định.
Chính thể Cộnghòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình thành, phát triển gắn với Chủnghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ tư tưởng của giai cấp vô sảnphát huy vai trò cách mạng trong xã hội Việt Nam với thiết chế tươngứng là Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa ViệtNam cùng với các tổ chức khác thuộc hệ thống chính trị của đất nước.
Lựclượng vũ trang nhân dân Việt Nam là một trong những yếu tố cấu thànhcủa tổ chức quyền lực nhà nước, có vai trò vô cùng quan trọng để bảo vệchính thể, bảo vệ quyền lực nhà nước, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa,bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhândân. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, thể hiện tập trung ý chí, nguyệnvọng của lực lượng lãnh đạo xã hội và của toàn dân, cần thiết có quyđịnh những nội dung về bảo vệ Tổ quốc và các lực lượng vũ trang nhândân.
3. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do ĐảngCộng sản Việt Nam thành lập, giáo dục, rèn luyện; quá trình chiến đấu,xây dựng và trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân luôn gắn liềnvới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản chất cách mạng, tínhchính trị của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là tất yếu, phù hợpthực tiễn cách mạng Việt Nam. Mỗi quốc gia, dântộc, trong tiến trình vận động, phát triển phải tuân theo những quyluật khách quan của xã hội, phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh cụthể, đặc thù của đất nước. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam làlực lượng vũ trang cách mạng, là một trong những lực lượng, công cụtrọng yếu để bảo đảm thực hiện chuyên chính vô sản.
Tính chính trị, bảnchất giai cấp, tính Đảng của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam khôngphải xuất phát từ ý chí chủ quan, một chiều của Đảng Cộng sản Việt Nammà nó được quy định bởi chính thực tiễn vận động của cách mạng Việt Namtừ nửa cuối thế kỷ IX đến nay. Điều này có thể khái quát trên các bìnhdiện cơ bản sau:
Thứ nhất, sự ra đời, phát triểncủa Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộngsản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội, trong đó có lực lượng vũ tranglà sự lựa chọn duy nhất đúng của lịch sử dân tộc, phù hợp tình hình ViệtNam.
Thực tế lịch sử cho thấy, từ cuối thế kỷ IX đến đầu thế kỷ XX, chếđộ Phong kiến Việt Nam suy tàn, thực dân Pháp xâm lược, đô hộ Việt Nam.Các phong trào yêu nước, các cuộc khởi nghĩa theo xu hướng phong kiếnhay dân chủ tư sản lúc bấy giờ như phong trào Cần Vương, phong trào DuyTân, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục… đều thất bại và theo đó, con đườngcách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ lâm vào tình trạngkhủng hoảng.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước đó phản ánh rấtnhiều vấn đề, trong đó có điểm mấu chốt là các lực lượng lãnh đạo thuộcgiai cấp địa chủ phong kiến hay tư sản ở Việt Nam hoặc hệ tư tưởng lạchậu, hoặc thực lực hạn chế, không có được đường lối cách mạng và cácthiết chế đủ năng lực để lãnh đạo nhân dân Việt Nam giải phóng dân tộc,đưa đất nước phát triển theo xu thế mới của thời đại.
Sự truyền bá Chủ nghĩa Marx-Lenin của các lực lượng vô sản từ đầu thếkỷ XX vào Việt Nam mà tiên phong, tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc - Hồ ChíMinh, với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân, kết hợp vớiphong trào yêu nước đã đặt ra nhu cầu tất yếu của sự ra đời của một tổchức cách mạng vô sản.
Sự ra đời của các tổ chức, sự lớn mạnh của cáclực lượng, phong trào vô sản những năm 20 của thế kỷ XX mà đỉnh cao làsự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 (hợp thành từ 3 tổ chứccộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông DươngCộng sản liên đoàn) đã thực sự chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lốivà tổ chức của cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sảnViệt Nam, cách mạng Việt Nam đã giành những thắng lợi lịch sử, đưa dântộc Việt Nam đi vào kỷ nguyên mới - độc lập dân tộc, tiến lên Chủ nghĩaxã hội. Sự khẳng định vai trò duy nhất lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhànước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam vì thế là sự lựa chọn của điềukiện thực tiễn đất nước, là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc.
Thứ hai, con đường cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên Chủnghĩa Xã hội ở Việt Nam, như thực tiễn đã minh chứng chỉ có thể thànhcông bằng con đường đấu tranh bạo lực cách mạng. Muốn thực hiện bạo lựccách mạng phải kết hợp chính trị với quân sự và các mặt trận khác, trongđó không thể thiếu được mặt trận quân sự, không thể thiếu một lực lượngvũ trang do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Việc hình thành và phát triển mộtlực lượng vũ trang nhân dân, mang bản chất cách mạng, chịu sự lãnh đạovà tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, với Tổ quốc và nhândân là nhu cầu tất yếu để thực hiện nhiệm vụ của cách mạng.
Lực lượngvũ trang nhân dân Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Namsáng lập và chỉ đạo, trong suốt thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc,thống nhất đất nước cũng như sau này đã phát huy cao độ tinh thần cáchmạng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng và chế độXã hội chủ nghĩa.
Chỉ dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, với đườnglối vũ trang cách mạng đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũtrang nhân dân Việt Nam mới có đủ bản lĩnh, năng lực là lực lượng nòngcốt trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
Vì vậy, tính chính trị,tính cách mạng, yêu cầu trung thành của lực lượng vũ trang với Đảng Cộngsản Việt Nam, với chế độ Xã hội chủ nghĩa, lực lượng vũ tranh chịu sựlãnh đạo của Đảng là vấn đề đặc biệt quan trọng để bảo đảm sức mạnh, bảo đảm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cao cả của lực lượng vũ trang trongmọi hoàn cảnh.
Việc Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định rõ vềbản chất chính trị, vai trò, nhiệm vụ trọng tâm của lực lượng vũ trangtrong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là phù hợp. Quy định này là cơ sở pháp lýcao nhất để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam cách mạng,chính quy, từng bước hiện đại đáp ứng tốt mọi yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệTổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia trước mắt và lâu dài.
Thứ ba, tình hình quốc tế và khu vực đang diễn biến phức tạp; bấtổn chính trị xã hội, lật đổ chế độ, thay đổi thiết chế lãnh đạo đất nướcdo mâu thuẫn trong nước và tác động từ bên ngoài dưới chiêu bài dânchủ, nhân quyền… đã và đang diễn ra ở nhiều nơi (như ở Bắc Phi, TrungĐông)… Các thế lực thù địch, các lực lượng phản động lợi dụng tình hìnhđó đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình,” tác động vào bên trong nhằmchuyển hóa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ Xã hộichủ nghĩa ở Việt Nam.
Một trong những vấn đề được các thế lực thù địchtập trung tấn công là tìm mọi cách để thâm nhập nội bộ, hướng lái chínhsách, pháp luật hòng phi chính trị hóa, phi đảng phái hóa lực lượng Quânđội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam, tách các lực lượng vũ trangnày ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm suy yếu, biến chất lựclượng vũ trang và tước đi công cụ trọng yếu của Đảng, của Nhà nước ViệtNam Xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả củacách mạng.
Vì vậy, nếu đặt vấn đề Hiến pháp mới quy định phi chính trị hóa lực lượng vũ trang sẽ mắc phải đúng mưu kế tác động của các thế lựcthù địch đối với đất nước, với chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy nhiên, cần lưu ý, không phải bất cứ ý kiến, quan điểm nêu ra vềvấn đề phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nào cũng xuất phát từ ý đồxấu, âm mưu đen tối nêu trên. Thực tiễn do nhiều nguyên nhân, như chưađánh giá đúng tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội của đất nướcvà thế giới, chưa hiểu rõ căn nguyên lịch sử, hoàn cảnh cụ thể của việcxác định tính chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam hoặc dotác động của các luận điều tuyên truyền tiêu cực, một chiều… nên cónhững ý kiến đồng tình với quan điểm phi chính trị hóa lực lượng vũtrang, so sánh vấn đề này ở Việt Nam với một số nước phương Tây khác.
Vấn đề này đòi hỏi chính hệ thống chính trị của chúng ta, các cơ quanlàm công tác tư tưởng, tuyên truyền của Đảng, Nhà nước cần tăng cườngcông tác thông tin, truyên truyền liên quan lĩnh vực này, làm cho cán bộvà nhân dân hiểu rõ, nhận thức đúng vấn đề, đồng thời nâng cao ý thứccảnh giác của toàn dân trước các âm mưu, hoạt động của các thế lực thùđịch lợi dụng việc góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhằm tiếnhành các hoạt động chống phá cách mạng, gây bất ổ định chính trị, xã hộicủa đất nước.
4. Bài học từ việc phi chính trị hóa lực lượng vũ trang ở một số nước - Hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũ và Đông Âu sụp đổ vào nhữngthập niên 80 và 90 của thế kỷ trước có rất nhiều nguyên nhân, trong đócó việc “cải tổ” xóa bỏ quy định của pháp luật về vai trò lãnh đạo nhànước, xã hội của Đảng Cộng sản, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng,phi chính trị hóa lực lượng vũ trang.
- Hiện nay, ởmột số nước, đặc biệt ở các nước mà điều kiện kinh tế xã hội, dân tríchưa phát triển ở trình độ cao và đồng đều, sự tồn tại nhiều đảng pháichính trị, thực hiện phi chính trị hoá lực lượng vũ trang đang phải vậtlộn, đối mặt với tình trạng mâu thuẫn, xung đột và bất ổn chính trị, xãhội gia tăng, thậm chí tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội.
Thực tiễn nàycó thể thấy rõ ở các “mô hình dân chủ” được phương Tây hết sức cổ vũ,ủng hộ, đã và đang được “thiết kế,” “tạo dựng” ở nhiều nước thuộc khuvực Đông Âu, SNG và đặc biệt là ở khu vực Bắc Phi, Trung Đông, thông quacác cuộc “cách mạng màu,” hay phong trào “Mùa xuân Arập” trong thờigian qua.
Bên cạnh đó, một số nước trong khu vực Đông Nam Á, như TháiLan, Campuchia cũng thực hiện phi chính trị hóa (thực chất là đa chínhtrị hóa, đa đảng phái hóa) lực lượng vũ trang cũng gặp phải không ít trởngại trong việc bảo đảm đoàn kết, thống nhất nội bộ, tăng cường tiềmlực quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ côngdân…
Những hậu quả tiêu cực từ xu hướng phi chính trịhoá lực lựng vũ trang như nêu trên là bài học to lớn cho quá trình xâydựng, sửa đổi Hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam chúng ta. Một trongnhững mục tiêu căn bản của sửa đổi Hiến pháp 1992 là bảo đảm ổn địnhchính trị xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, bảo vệ Tổquốc, đưa đất nước ta phát triển bền vững theo con đường cách mạng Xãhội chủ nghĩa.
Vì vậy, Hiến pháp cũng như các đạo luật khác liên quan,không thể quy định phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nhân dân; lựclượng vũ trang nhân dân không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sảnViệt Nam.
Trên đây là một số ý kiến về cơ sở củaviệc quy định về lực lượng vũ trang nhân dân trong Dự thảo sửa đổi Hiếnpháp năm 1992 và luận giải vì sao không thể đưa vào Dự thảo sửa đổi Hiếnpháp năm 1992 các quy định liên quan đến vấn đề phi chính trị hóa lựclượng vũ trang nhân dân.
(TTXVN)