Khoảng 20 năm qua, ông giáo Lương Văn Trưng (thôn Đông, xã Hồng Việt, Đông Hưng, Thái Bình) đã dạy ôn thi miễn phí cho rất nhiềucon em thương bệnh binh, nhà nghèo của tỉnh đỗ đại học, caođẳng.
Thầygiáo Lương Văn Trưng vốn là giảng viên của trường Nghiệp vụ công nghiệpđịa phương Nam Hà (đặt tại Lý Nhân), về hưu từ năm 1980. Qua giới thiệucủa đồng nghiệp cũ, cũng là người từng chịu ơn mình đang làm lãnh đạotại Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thái Bình, ông nhận lời dạy tiếng Anh,tiếng Pháp nâng cao cùng tiếng Latinh cho đội ngũ bác sĩ, kỹ sư củatỉnh, dạy bồi dưỡng văn, ngoại ngữ cho giáo viên văn PTTH trong tỉnh.Vì là thầy của thầy, nên ông nhất loại được học trò đang đứng trên bụcgiảng gọi là ông, xưng con.
Ông giáo làng Lương Văn Trưng bên những hòm sách của mình. |
Hếtkhóa học ấy, ngồi rỗi không chịu được, ông tập trung 5-6 học sinh làcon cháu của các bậc lão thành cách mạng vốn là người quen của mình, ônthi tốt nghiệp PTTH và thi đại học. Ông dạy cả toán, lý, hóa lẫn văn,sử, địa, tiếng Anh, tiếng Pháp, đặc biệt là tiếng Anh, tiếng Pháp.
Nhưngmỗi năm, ông cũng chỉ nhận dạy 5 - 6 học sinh, mà phải là học sinh cósức học khá, chăm ngoan, con em thương binh, liệt sĩ hoặc con nhànghèo, vì “Lớp đông quá thì sức tôi không kham nổi”, ông nói.
Ôngthường bảo học trò, nếu chỗ nào không hiểu cứ nói để ông giảng lại. Lớphọc đặt tại trường PTTH Tiên Hưng (huyện Đông Hưng). Mỗi năm cũng chỉvài tháng giáp kỳ thi, ông – trò mới ôn luyện. Hầu hết những học sinhhọc lớp ôn thi của ông đều đỗ đạt cao.
Dạyở trường PTTH Tiên Hưng, cách nhà chừng 5km, nhiều giáo viên và họcsinh muốn được đưa ông về bằng xe máy nhưng ông không muốn làm phiềnai, vẫn kẽo kẹt chiếc xe đạp tồng tộc. Mãi về sau, sợ sức yếu quá phảiđi xa, ông mới cho học trò chở về bằng xe máy.
Nhiềungười bảo ông là dở, là dại dột, bởi trong khi người ta dạy luyện thiđại học để mua xe, xây nhà thì ông cứ dạy không công. Ngay cả các conông cũng bảo: “Ông già rồi, chẳng có thu nhập, uống bằng nước lã à”?.
Ôngthường căn dặn học trò là ông con sống với nhau chân thật, nhớ đến nhaulà được, đừng quà cáp. Một lần có phụ huynh biếu mâm vải thiều, ôngcũng không nhận. “Cuộc sống đến thế là đủ rồi. Tôi có chế độ về hưu mấtsức của mình”.
Gọilà có chế độ, chứ do vì về hưu mất sức năm 1980 nên chỉ có sổ gạo chứkhông có lương, sau đó mới được 45.000 đồng/tháng rồi tăng lên 50.000đồng, hiện tại cũng chỉ được hơn 300 nghìn đồng/tháng. “May mắn là tôicó người vợ rất tốt, bà ấy không hề kêu ca gì”, ông nói.
Lúcmới về hưu, con cái nheo nhóc, ông phải xuống ao lấy bùn thuê nuôi giađình. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, các con ông cũng không theo học lêncao, người đi bộ đội, người đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Điện Biên,Lai Châu, cuộc sống rất vất vả.
Dùđã được nghe kể trước, nhưng đến nhà ông, chúng tôi vẫn không khỏi ngạcnhiên bởi căn nhà ba gian quá bé nhỏ, nếu không nói là tuềnh toàng.Ngoài bộ bàn ghế đivăng cũ kỹ, chiếc TV từ đời “cổ lai hy”, thì chẳngcó gì đáng giá.
Ngay như chiếc tivi ấy cũng là đồ cũ của người quen mà con gái ở ĐiệnBiên xin về biếu bố mẹ. “Trước mình khổ lắm, nhưng nhờ các thầy giáotốt nên mình mới được ăn học đến nơi đến chốn, nên chẳng có lý do gìkhi học sinh nghèo, ham học mà mình lại không giúp đỡ.
Tàisản lớn nhất đời tôi là tình cảm của các thế hệ học trò” - ông giáo giàtừng được Giáo sư Hoàng Như Mai gọi là “học sinh yêu” bảo vậy. Đến nay,ông cũng không thể nhớ nổi mình có bao nhiêu học trò, vì mấy chục nămcần mẫn đưa đò, vị học trò lớn tuổi nhất của ông là nhà thơ Trần ĐìnhĐộng cũng trên 75 tuổi, lớn hơn cả thầy.
Chỉtính đến năm 2004, có 86 học sinh con em thương bệnh binh, lão thànhcách mạng, con nhà nghèo đã bước vào giảng đường đại học, cao đẳng từlớp ôn thi của ông giáo làng Lương Văn Trưng, trong đó có em Điền đạtđiểm cao nhất kỳ thi tốt nghiệp PTTH tỉnh Thái Bình năm 2002, em Bảo(xã Thăng Long, huyện Đông Hưng) đỗ thủ khoa trường Đại học Bách KhoaHà Nội năm 2003.
"Giáo sư Lavalatra”
Hơn10 tuổi, cậu bé Lương Văn Trưng ở xã Hồng Việt, phủ Tiên Hưng đã nổitiếng thông minh, đặc biệt rất giỏi tiếng Pháp. Nhà nghèo, bố mẹ đềulàm nông dân, gia đình có tới 7 anh em, nhưng vì cậu bé Trưng học rấtgiỏi, mỗi năm cậu nhận được hàng tá bút, sách, được ưu tiên đong thóc.
Mới14 tuổi, nhưng ông phải khai tăng lên 2 tuổi để đủ tuổi thi Certificat(theo quy định 16 tuổi mới được thi Certificat) và đỗ bằng Diplôme khi16 tuổi.
Khôngphải dân khoa học, nhưng bị cuốn vào khí thế hừng hực thời kỳ miền Bắcxây dựng CNXH 5 năm lần thứ nhất, ông cũng mày mò nghiên cứu quá trìnhchuyển hóa phân tử Ion trong đất, ứng dụng trực tiếp vào đời sống nôngnghiệp của nông dân.
Côngtrình khoa học “Đời sống cây trồng” của ông được Hội đồng khoa họcduyệt sau 8 ngày và đã được thực nghiệm tại Thái Bình. Trong đó, ôngđặc biệt chú ý tới phương pháp truyền đạt tới người nông dân, vì nếudập khuôn kỹ thuật, kinh nghiệm của các nước vào Việt Nam thì không phùhợp với trình độ dân trí của người nông dân Việt Nam vốn còn thấp.
Đơngiản như việc hòa nước tiểu với phân lân, đạm để tưới cây - vốn là mộtquá trình phản ứng hóa học với ngôn ngữ chuyên ngành và đó cũng là việcmà nông dân miền Bắc thời đó quen làm, nhưng ông lại giảng giải cụ thểcho họ bằng ngôn ngữ của chính họ.
Trongcác buổi thuyết trình bảo vệ công trình khoa học với nhà khoa học nướcngoài, vì cái tên Lương Văn Trưng phát âm khó, nên ông đã nghĩ ra tênLavalatra ( La: Lương, Va: Văn, Tr: Trưng), vừa chơi chữ trong tiếngPháp (giáo sư), lại vừa viết tắt tên ông cho đồng nghiệp nước ngoài dễgọi. Biệt hiệu “Giáo sư Lavalatra” bắt đầu từ đó.
Vớibản tính giản dị, nhiều người ngạc nhiên, đến khó tin khi thấy "Giáo sưLavalatra" ăn mặc đơn giản, thậm chí còn có vẻ rất nghèo khổ. Có lầnông dạy ở trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình về, một giáo viên ở gần đóbán tin bán nghi bám theo hỏi thăm.
Lúcđầu ông tưởng anh ta cần giúp đỡ việc gì đó. Nhưng không phải vậy. Anhnày chỉ vì muốn được gặp trực tiếp ông để nhìn cho rõ. Anh ta nhìn ôngtừ đầu đến chân, từ chân đến đầu, rồi bảo: Người ta đồn cụ tên là“Lanxa”, hay xuất hiện trên báo cùng mấy ông Tây to cao, nhưng tôikhông tin, hôm nay mới được trực tiếp. Quả thật, họ nói chẳng sai.
Nâng niu 72 hòm sách quý
Mộtđiều đáng khâm phục ở ông là hiện ông có một kho sách quý. Kho sách ấy,một phần do ông có từ trước, một phần do học trò đem về.
Họctrò biết sở thích lớn nhất của ông là đọc sách, nên cử nhau đi tìm bằngđược sách quý, nhất là sách tiếng Anh, tiếng Pháp mang tới biếu thầy.
Trongsố đó có bộ sách tiếng Pháp xuất bản cách đây 60 - 70 năm, bìa bọc lụarất quý từng qua tay đồng nát, rồi lọt vào tủ sách của một thầy giáokhác, nhưng một vị giám đốc sở tỉnh nọ đã kỳ công tìm về biếu ông.
Hiệnnay, tủ sách của ông có hơn 4 vạn cuốn sách, trong đó có nhiều cuốnsách hiếm như bộ “Những người khốn khổ” bằng tiếng Pháp. Toàn bộ sốsách ấy được ông lưu giữ trong 72 hòm tôn để tại một khu nhà riêng vàcả cạnh giường nằm...
Aicần sách, ông đều cho mượn: “Chỉ mong mọi người giữ gìn cẩn thận, đểkhi người khác cần thì có sách cho họ mượn, vì đó cũng không phải sáchcủa tôi mà của học trò nhiều thế hệ gửi tôi. Tôi chỉ giữ hộ cho thôi –ông nói.
Mấynăm nay, do sức khỏe yếu nhiều nên ông Trưng đã thôi dạy học. Tuynhiên, hằng ngày ông vẫn cặm cụi biên soạn, ghi chép tư liệu bài giảngđể tập hợp thành sách đem đi in, nhất là sách về ngoại ngữ.
“Hiệnnay nhiều sách ngữ pháp quá, người học và người dạy đều khổ, nên tôitổng hợp lại có hệ thống, trình độ nào cũng có thể hiểu được. Tôi lonhất là mình yếu thôi. Nhiều người bảo tôi, ông cứ hoàn thành đi, sẽ incho ông”, ông tâm sự.
(Nguồn: Tintuc)