Thơ tứ tuyệt là thể thơ quen thuộc với người Việt Nam. Thể thơ này trong những năm gần đây dường như được mọi người chú ý nhiều hơn. Đã xuất hiện những công trình chuyên dịch thơ tứ tuyệt. Nhiều tập thơ tứ tuyệt của những nhà thơ có tiếng đã được xuất bản. Các cuộc bình thơ tứ tuyệt, thi thơ tứ tuyệt, sáng tác thơ tứ tuyệt, đã được một số tờ báo, tạp chí tổ chức.
Dưới đây xin giới thiệu bài thơ tứ tuyệt của tác giả Đặng Bảo Thạch được in trong Tuyển tập "Thơ Hải Dương 2000-2010".
Uống rượu tắc kè nhớ chiến trường Nam Lào (1972)
Rừng cháy trăng mờ suối cạn khô
Tắc kè lạc giọng gọi sang mùa
Rượu nồng một chén đà lấng khấng
Uống cả vào lòng tiếng gọi xưa.
Bài thơ là cả một nỗi nhớ.
Hai câu đầu, câu "khai" và câu "thừa":
Rừng cháy trăng mờ suối cạn khô
Tắc kè lạc giọng gọi sang mùa
Đây là hai câu thơ gợi chuyện, gợi về một quãng đời có thật trong cuộc đời tác giả những năm chiến đấu ở chiến trường Nam Lào. Một khung cảnh thiên nhiên trong chiến tranh, thiên nhiên ở chiến trường đã được tạo dựng.
Mười bốn chữ không có một chữ "nhớ" nào mà nỗi nhớ cứ hiện lên mồn một khung cảnh chiến trường xưa với "rừng", "trăng", "suối". Rừng thì cháy ngùn ngụt bốc lên tận trời xanh làm cho vầng nguyệt phải mờ, ngọn lửa bạo tàn khiến cho dòng suối khô kiệt. Cảnh chiến trường khốc liệt như nỗi đau chết lặng của con người. Rồi tiếng tắc kè lảnh lót, da diết trong nỗi nhớ, lay động tâm can nhà thơ. Tắc kè gọi sang mùa. Tắc kè mong mùa mưa đến mang lại sự sinh sôi, mát lành, nguồn sống cho cỏ cây, muông thú nơi đây. Tắc kè gọi đến "lạc giọng".
Có cái gì xao xuyến, rưng rưng trong ta. Có phải vì cái khát khao cháy bỏng, khát khao đến quên mình của con tắc kè nhỏ bé kia. Như vậy sự sống không bị hủy diệt, sự sống vẫn ấp ủ, sự sống sẽ hồi sinh trong tiếng kêu của con tắc kè đó.
Là hai câu thơ gợi chuyện mà tình ý thơ đã lan tỏa ngoài lời.
Trong thơ tứ tuyệt, câu ba thường được chú trọng hơn, đó là câu "chuyển". Hai câu đầu diễn tả cảnh sắc thiên nhiên ở chiến trường, đến câu thứ ba chuyển sang con người:
"Rượu nồng một chén đà lấng khấng"
Rượu "một chén" mà người uống đã có vẻ say. Thực tế một chén nhỏ rượu thuốc làm sao say được. Người uống không say rượu mà say kỷ niệm. Chén rượu tắc kè như một tác nhân mở cánh cửa thời gian, mở cánh cửa lòng tác giả, đưa tác giả về quá khứ sống lại với kỷ niệm xưa - những năm tháng gian khổ, hào hùng mà mỗi người lính dễ mấy ai quên.
Bài thơ kết lại bằng câu "hợp":
"Uống cả vào lòng tiếng gọi xưa"
Câu thơ đầy dư vị, dư vang, giữ nhiệm vụ khép lại bài thơ nhưng câu thơ lại mở ra cả một trời thương nhớ.
Cấu trúc bài thơ gọn nhẹ, ngôn từ gợi nhiều hơn tả. Bao trùm bài thơ là cái tình sâu nặng của người chiến sĩ "nhớ chiến trường". Bài thơ hàm chứa tình cảm sâu sắc của một trái tim giàu yêu thương.
"Uống rượu tắc kè nhớ chiến trườn Nam Lào (1972)" là một bài thơ tứ tuyệt man mác phong vị Đường thi, có sức ám ảnh người đọc.