Đọc lại những bài thơ viết về đề tài thương binh, liệt sĩ, tôi rất ngạc nhiên khi bắt gặp những tứ thơ được triển khai theo một cách riêng nhưng đều mang dấu ấn của thời đại.
Đọc lại những bài thơ viết về đề tài thương binh, liệt sĩ, tôi rất ngạc nhiên khi bắt gặp những tứ thơ được triển khai theo một cách riêng nhưng đều mang dấu ấn của thời đại.
Bài “Viếng bạn” của nhà thơ Hoàng Lộc và “Mồ anh hoa nở” của nhà thơ Thanh Hải đều viết theo thể thơ 5 chữ với lối tự sự, trữ tình. Cũng là nỗi đau nghẹn thắt trước sự hy sinh của đồng đội nhưng “Viếng bạn” thì chính tác giả được chôn cất người đã mất “Hôm nay đã chặt cành/Đắp cho người dưới mộ” còn ở “Mồ anh hoa nở” thì “Hôm qua chúng giết anh/Xác phơi đầu ngõ xóm” và “Mắt trừng còn dọa dẫm/Thằng này là cộng sản/Không được đứa nào chôn”. Nhưng khi chúng quay đi thì bà con làng xóm đã đưa anh về yên nghỉ trên đồi cao bất chấp cả lời đe dọa của lũ giặc. Trên nấm mộ của người chiến sĩ đó luôn có những bó hoa hồng: “Hoa hồng nở và nở/Hương thơm bay và bay”. Bài thơ của Hoàng Lộc viết trong thời kỳ chống Pháp mộc mạc, lời thơ như chạm khắc vào ký ức. Còn nhà thơ Thanh Hải viết trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã nâng tứ thơ thành biểu tượng. Nhân vật khắc họa trong bài thơ như một tượng đài, có vẻ đẹp bất tử…
Trong các bài thơ viết về thương binh, liệt sĩ, những bài hay và thành công nhất có sức lan tỏa rộng nhất, dễ thuộc nhất thường là những bài có cốt truyện như “Núi Đôi” của Vũ Cao trong kháng chiến chống Pháp và “Quê hương” của Giang Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cả hai đều kể về câu chuyện tình yêu thật cảm động với một cô gái và sự hy sinh trong những hoàn cảnh cụ thể. Với Vũ Cao thì: “Mới đến đầu ao, tin sét đánh/Giặc giết em rồi dưới gốc thông” thì ở Giang Nam: “Giặc giết em rồi quăng mất xác/Chỉ vì em là du kích em ơi!”.
Có hai bài thơ dài khá thành công của hai nhà thơ nổi tiếng sau này viết khi họ còn là những người lính trực tiếp cầm súng đánh giặc và viết về chính sự hy sinh của những người thân của mình đó là bài “Phan Thiết có anh tôi” của nhà thơ Hữu Thỉnh và “Nấm mộ và cây trầm” của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Người anh trai của Hữu Thỉnh hy sinh ở Phan Thiết khi cùng mọi người đi lấy nước cho đồng đội: “Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ/Mất chỉ còn cách nước một vài gang”. Cái khoảng cách giữa lấy nước (cho sự sống) và cái chết thật mỏng manh: “Vài bước nữa/Thế mà/ Không thể khác/Biển màu gì thăm thẳm lúc anh đi?”. Còn người bạn thân cũng là đồng đội tên là Hùng của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu thì: “Nhận cái chết cho đồng đội sống/Ngực chặn lỗ châu mai Hùng đứng thẳng/Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi”. Cứ ngỡ ở đây cả hai thi sĩ không làm thơ nữa mà họ chỉ ghi lại, gọi lên những phút giây oanh liệt, những thời khắc lịch sử… để rồi thăng hoa một chiêm nghiệm sống.
Thơ viết về thương binh, những người “Tàn mà không phế”, những người không chỉ mất một phần máu thịt mà còn mang trong mình những cơn sốt rét rừng âm ỉ, những di chứng của chất độc da cam/dioxin mà còn có những “vết thương lòng” chia cắt. Đó là sự trống vắng, cô đơn, sự thiếu hụt tình cảm của bao cô thanh niên xung phong trở về quá tuổi và vào chùa thành sư nữ. Nhà thơ Phạm Tiến Duật trong trường ca “Tiếng bom và tiếng chuông chùa” viết thật xúc động về người nữ thương binh từng bị những mảnh bom xuyên vào đầu đau nhức những khi trái gió trở trời: “Sao sư thầy không gõ mõ/Lại vừa tụng kinh vừa gõ đầu mình/Có thể nào những day dứt thời bình/Cũng có thể làm vết thương thủa nào tái phát”.
Vâng, máu xương của các anh hùng liệt sĩ, những thương binh, bệnh binh đã hóa thân vào mỗi ngọn núi, dòng sông của đất nước. Họ đã hóa thân vào mỗi trang thơ, trang văn cho các thế hệ mai sau. Đó chính là tượng đài được dựng nên bất tử trong trái tim mỗi người…
NGUYỄN NGỌC PHÚ