Đã bốn chục năm nay, ngày 30-4 đã trở thành một ngày lịch sử của dân tộc. Trong mỗi người đều có kỷ niệm của riêng mình về ngày trọng đại ấy.
Với tôi, ký ức về giờ phút thiêng liêng ấy gắn với những ngày truyền tin chiến thắng, là những giọt nước mắt của người mẹ, người vợ sung sướng đến tột độ... trên mảnh đất hậu phương.
Nhân dân TP Hải Dương mừng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975)
Ảnh tư liệu
Những năm 1974-1975, tôi là Trưởng ban Văn hoá thông tin xã. Chúng tôi được cấp một tờ báo Nhân Dân và một tờ báo Hải Hưng, một chiếc loa gò bằng sắt tây và chiếc đèn bão làm công cụ tuyên truyền. Ngày ấy từ trưởng ban đến tuyên truyền viên đều không có phụ cấp lương như bây giờ. Chủ yếu là ăn công điểm rồi đến mùa quy ra thóc. Trưởng ban được khoán 180 công, thông tin viên được 144 công/6 tháng. Ngoài thời gian đi hoạt động kẻ vẽ, phát thanh hô loa, tuyên truyền miệng, nói chuyện thời sự, biểu diễn văn nghệ... anh chị em còn tranh thủ thời gian đi lao động sản xuất, đào công sự, đắp ụ pháo, phục vụ chiến đấu.
Ngày ấy cả nước đang dốc toàn lực để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trai tráng ra mặt trận hết, chỉ còn ông già bà cả, thanh niên, học sinh và chị em phụ nữ ở làng. Người ta mong tin chồng con sớm trở về đoàn tụ thông qua nghe tin thắng trận trên đài, trên báo và những tin tức ở địa phương… Thế nên công tác thông tin tuyên truyền cơ sở rất quan trọng.
Phố Thiên nằm giữa ngã ba xã Thái Học (Chí Linh), có một quả đồi, bên bờ dòng sông nhỏ. Chúng tôi dựng một chòi phát tin đặt trên quả đồi. Với những tờ báo có trong tay và tin tức thu thập được trên Đài Tiếng nói Việt Nam, chúng tôi đã chọn lọc và hằng đêm đọc. Sau chiến thắng Tây Nguyên mùa xuân 1975, nhất là khi Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, tình hình chiến trường miền Nam có những thay đổi rất nhanh. Ta liên tiếp giải phóng các vùng quân sự và dân cư do địch kiểm soát. Công tác tuyên truyền được quán triệt phải bằng nhiều cách đem tin chiến thắng từ tiền tuyến khói lửa về từng làng quê, đến với người hậu phương.
Dạo ấy, mọi chỗ tập trung đông người đều nói tới khí thế chiến đấu, giải phóng miền Nam. Nhiều bà mẹ, người vợ đã khóc hết nước mắt vì thương nhớ chồng con, chỉ mong sao cho đến ngày kết thúc chiến tranh hưởng cảnh đoàn tụ gia đình. Nhìn chúng tôi kẻ vẽ tranh cổ động, viết khẩu hiệu… nhiều người thật thà hỏi: Sắp hết chiến tranh chưa, anh thông tin? Bây giờ giải phóng đến đâu rồi, anh ơi?...
Chúng tôi vẽ tấm bản đồ Việt Nam thật to trên bức tường lớn. Ở bên cạnh bản đồ là khẩu hiệu hành động: "Tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, tất cả cho thống nhất đất nước!"
Hằng ngày nghe đài, báo đưa tin giải phóng tỉnh nào, chúng tôi dùng bột màu đỏ tô vào tỉnh đó. Chẳng bao lâu, màu đỏ choán hết tấm bản đồ. Người dân ít chữ xem cũng biết là quân ta sắp tiến vào Sài Gòn. Không chỉ thế, chúng tôi còn làm một bảng cập nhật thông tin từng ngày đã giải phóng thêm tỉnh nào…
Sang ngày 29-4-1975, quân ta áp sát Sài Gòn, Đài Tiếng nói Việt Nam đọc những bản tin dạt dào khí thế chiến thắng. Bằng linh cảm nghề thông tin, tôi nhận rằng chiến tranh sắp kết thúc, Sài Gòn chắc chắn được giải phóng. Bây giờ cần làm cái gì để đón đầu, để không bị động. Và tôi có cách.
Giữa trưa 30-4, tôi đang ở nhà người hàng xóm, bỗng nghe chiếc đài lắp trong nhà vang lên: "Sài Gòn đã giải phóng". Tôi giật mình chạy lên vặn to âm lượng để nghe cho thật rõ và chạy về nhà lấy tất cả pa nô, áp phích các cỡ đã chuẩn bị trước, phân công anh chị em thông tin viên treo lên những vị trí đã định hướng về ba ngả đường. Trên cổng chào được cắm hồng kỳ, quốc kỳ, cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam.
Chỉ chốc lát ở ngã ba cùng một lúc xuất hiện những khẩu hiệu: "Sài Gòn đã giải phóng, miền Nam đã giải phóng”. Những chữ tung ra đúng lúc thực sự làm rạo rực lòng người. Hàng trăm lượt người qua đây không ai không dừng xe, dừng bước ngước nhìn thích thú, sướng vui. Họ hỏi nhau, chia sẻ niềm phấn khởi và bày tỏ tình cảm của mình trước sự kiện lịch sử của dân tộc. Một bà mẹ lưng còng, khuôn mặt nhăn nheo đứng nghe người xung quanh đọc tin, bàn tán mà giàn giụa nước mắt vì sung sướng: "Con ơi, hòa bình rồi, mong con sớm về với mẹ". Một chị xã viên vừa ở đồng về, mồ hôi thấm bết mái tóc, nghển cổ đọc dòng chữ trên bảng tin, bỗng quay đi nghẹn ngào, với đôi mắt đỏ hoe...
Cần nói rằng, ngày ấy phương tiện thông tin thật nghèo nàn. Trong làng chỉ có vài ba chiếc đài lắp, âm thanh tiếng được tiếng mất, báo chí càng hiếm. Cấp huyện, cấp xã chưa có hệ thống truyền thanh riêng như bây giờ, chủ yếu là nghe truyền thanh tỉnh, nhưng truyền dẫn về tận làng không phải lúc nào cũng nghe được. Vì vậy, cái tin giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam do chúng tôi đưa ra kịp thời làm cho nhân dân quanh vùng phấn khởi, xúc động vô cùng.
Đêm ấy chúng tôi tổ chức một chương trình truyền thanh đặc sắc chào mừng ngày giải phóng miền Nam. Thoạt đầu là ba hồi kẻng (kẻng làm bằng vỏ bom câm của giặc Mỹ, dùng để gõ báo hiệu lệnh đi làm của HTX), tiếp đến là ba hồi trống trận rung động làng thôn, sau là tiếng loa đọc tin chiến thắng, giải phóng Sài Gòn. Rồi các cô gái trong đội hát những bài ca đại thắng. Tiếng đàn măng đô lin tưng bừng và lời ca bài hát “Việt Nam trên đường chúng ta đi” hào sảng trong đêm.
Những bức ảnh trên báo Nhân Dân, Hải Hưng được tôi để dành từ trước, nay cắt dán, biên tập thành chủ đề, chủ điểm, dán trên băng vải đỏ, có chú thích mang đi triển lãm cho nhân dân xem. Bộ triển lãm có hàng trăm tấm ảnh với nội dung phong phú, chân thực và cảm động: Nào là "Những chiến tích anh hùng", nói về nhân vật-sự kiện, nào là "Đất bồi khép kín vết thương" miêu tả cảnh hàng trăm đồng bào miền Nam từ nơi tản cư, nay đang hả hê trở về làng, giúp nhau dựng lại nhà, ổn định cuộc sống trong những ngày đầu hòa bình giải phóng…
Tôi vẫn nghe vẳng bên tai tiếng người phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam hào sảng: "Đồng bào chú ý, 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, thành phố Sài Gòn đã hoàn toàn giải phóng".
Vậy mà đã 40 năm!
KHÚC HÀ LINH