Tròn 200 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du (16.9.1820-16.9.2020), tôi lại nhớ đến bài thơ "Bên mộ cụ Nguyễn Du" của tác giả Vương Trọng.
Tròn 200 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du (16.9.1820-16.9.2020), tôi lại nhớ đến bài thơ "Bên mộ cụ Nguyễn Du" của tác giả Vương Trọng. Nhà thơ, đại tá quân đội Vương Trọng là người rất mê Kiều. Hình như cái duyên này đã bén vào ông như một định mệnh mà ngay từ họ Vương (là họ Thúy Kiều) đến tên (mang tên Kim Trọng). Vốn là dân tổng hợp toán, Vương Trọng có trí nhớ nổi tiếng, ông có thể đọc thuộc cả Truyện Kiều và nhớ rất kỹ các điển tích. Điều này cũng được thể hiện trong bài thơ “Bên mộ cụ Nguyễn Du”.
“Bên mộ cụ Nguyễn Du” là một trong những tác phẩm tâm đắc nhất của đời thơ Vương Trọng và đây cũng là một trong những bài lục bát hay nhất của thơ Việt Nam hiện đại. Bài thơ đã được in lại nhiều lần trong các tuyển tập thơ Việt Nam.
Mở đầu với câu thơ dẫn chuyện thật bình dị ngẫu nhiên: “Tưởng rằng phận bạc Đạm Tiên/ Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây”. Có một điều lạ trong thi ca Việt Nam hiện đại là nhiều bài thơ hay lại là thơ có cốt truyện như “Núi đôi” (Vũ Cao), “Đêm nay Bác không ngủ” (Minh Huệ), “Thăm lúa” (Trần Hữu Thung), “Quê hương” (Giang Nam)... “Bên mộ cụ Nguyễn Du” được dẫn dắt trong một tình huống tác giả về thăm mộ Đại thi hào. Đến đây, bao nhiêu cảm xúc, những ngẫm ngợi lắng sâu và lay thức ùa về. Những cặp lục bát như lời tâm tình có thổn thức, có sẻ chia, có cảm thông, trăn trở.
Với cái tâm của một nhà thơ mặc áo lính, hình ảnh tác giả hiện lên: “Ngẩng trời cao, cúi đất dày/Cắn môi, tay nắm bàn tay của mình”. Một cử chỉ khiêm nhường, một động thái nhiều thổn thức khi nhìn thấy: "Một vùng cồn bãi trống chênh/Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề”. Đại thi hào Nguyễn Du là tác giả “Văn tế thập loại chúng sinh” nổi tiếng. Hình ảnh: “Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề” gợi không gian liền mạch đất đai, hòa chung cây cỏ giữa một bậc vĩ nhân với chúng sinh. Những câu thơ tả cảnh, tả tâm trạng tiếp theo như vòng sóng giao thoa tâm linh, cảm thông, trăn trở, cứ như níu kéo không dứt, vừa thiết tha vừa ứng gọi với các cặp: “Không cành - không hoa - không vầng cỏ” trong khung cảnh chao đảo cả lòng người: "Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu”. Cảnh tượng ấy làm cho bất kỳ ai cũng phải xúc động, nhưng với tác giả còn có sự đồng cảm, vừa ngưỡng mộ vừa day dứt nhưng tuyệt nhiên không có lời ta thán ủy mị. Những năm tháng ấy do hoàn cảnh còn khó khăn, khu mộ chưa xây lại được là có thật. Nhưng những cặp lục bát lại như những nhịp cầu nhân hậu nối Đại thi hào với thiên nhiên, với chúng sinh. Từ nhiều cái “không” để dẫn đến cái “có”, đến hành động cao đẹp: “Bao giờ cây súng rời vai/ Nung vôi chở đá tượng đài xây lên”. Bắt đầu từ: “Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm” đến “Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân/ Phong trần còn để phong trần riêng ai”, từ đó vươn tới một nhận thức cao cả, một chiêm nghiệm sâu sắc có tính dự báo đầy nhân văn và trách nhiệm: "Trái tim lớn giữa thiên nhiên/Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa”...
Có thể nói bài thơ “Bên mộ cụ Nguyễn Du” là một khúc ca tưởng niệm tâm tình nhân tính và từ đó khái quát lên một tâm tình nhân đạo về vẻ đẹp của thi nhân và thế hệ mai sau ngưỡng vọng về cụ. Từ cái khoảng cách ngưỡng mộ khi nhà thơ gọi Đại thi hào là cụ Nguyễn Tiên Điền đến rút ngắn lại tiếng gọi thiết tha của con cháu tri âm đồng cảm: “Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân”. Bài thơ cũng là một tấm bia tinh thần nhân văn, nhân ái trong lòng người quý vọng bậc Đại thi hào. Đến hôm nay ngôi mộ cụ Nguyễn Tiên Điền vẫn là trái tim lớn nằm giữa bao thập loại chúng sinh, giữa cỏ đã lên xanh, cây đã rợp bóng, giữa bao dòng người về viếng nhân 200 năm ngày mất của cụ...
NGUYỄN NGỌC PHÚ
Bên mộ cụ Nguyễn Du Tưởng rằng phận bạc Ðạm Tiên Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Ðiền nằm đây Ngẩng trời cao, cúi đất dày Cắn môi tay nắm bàn tay của mình Một vùng cồn bãi trống chênh Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề Hút tầm chẳng cánh hoa lê Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non Xạc xào lá cỏ héo hon Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi Lặng im bên nấm mộ rồi Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm Không cành để gọi tiếng chim Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời Không vầng cỏ ấm tay người Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu Thanh minh trong những câu Kiều Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân Phong trần còn để phong trần riêng ai Bao giờ cây súng rời vai Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên Trái tim lớn giữa thiên nhiên Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa... VƯƠNG TRỌNG |