Một chút hồn quê

15/05/2011 10:03

Dọc triền đê ven sông Thái Bình quê tôi mùa này xanh tốt bời bời đủ các loại cây cỏ. Có loại cây do con người gieo trồng như ngô khoai, đỗ lạc. Có loại cây lại do tự nhiên mà mọc lên như cỏ dại, dền gai, rau sam. Tất cả chen chúc nhau cùng sống, tạo thành một màu xanh bát ngát. Nhưng có một loại rau ít người để ý đến, đó là cây rau khúc. Rau khúc có hai loại: nếp và tẻ. Cây rau khúc tẻ có dáng thân cao, lá to và dày. Mỗi lần đi hái chẳng mấy chốc đã đầy rổ. Tuy vậy, 1oại cây rau khúc tẻ này được ít người ưa chuộng vì nó không thơm không ngậy bằng rau khúc nếp. Rau khúc nếp thân cây thấp, nằm sát mặt đất, phiến lá mỏng. Mặt trên của lá có phủ một lớp phấn trắng nhỏ li ti. Mẹ tôi bảo: "Loại này thường mọc lẫn với cỏ. Cỏ thì cao hơn rau khúc nếp nên khi hái phải vạch cỏ mới tìm thấy. Những người ngại khó, ngại khổ thì chỉ hái được rau khúc tẻ thôi". Công đoạn nấu xôi khúc hay làm bánh khúc là cả một công trình nghệ thuật, đòi hỏi sự kiên trì nhẫn nại. Sau khi lá khúc được hái về, mẹ tôi rửa sạch, để ráo nước, rồi vò nát, vắt lọc lấy nước và đổ gạo nếp vào ngâm chừng vài ba giờ. Sau đó đổ vào chõ đồ xôi. Khi xôi chín, mở vung ra. Chao ôi mộc mùi thơm nồng nàn tỏa ra đủ làm nức mũi những ai bất chợt đi qua. Mẹ tôi lại bảo: "Loại xôi khúc này thường mang lên chùa, lên đền làm lễ. Nhất là những ngày hội làng". Hội làng tôi ba năm mới mở một lần. Mâm lễ của gia chủ dù to dù sang trọng đến đâu nếu không có đĩa xôi nấu bằng lá rau khúc thì cũng coi như chưa dâng lễ. Bởi đó là hồn quê dâng lên các đấng thần linh chứng giám cho tấm lòng thành của người dân lành nơi thôn dã. Mẹ tôi biết nấu xôi, làm bánh khúc từ hồi còn bé. Bà ngoại tôi truyền cho. Bánh khúc của bà ngon tuyệt. Làm bánh khúc đòi hỏi cầu kỳ hơn và cũng mất nhiều thời gian hơn. Bột phải làm kỹ từ chiều hôm trước. Lá khúc được rửa sạch tinh, băm nhỏ, rồi đưa vào cối giã tay. Sau này có đủ các loại máy thay sức người nhưng mẹ tôi vẫn giã bằng tay. Bà bảo: "Giã tay tinh bột bao giờ cũng chín cũng dẻo hơn và thơm hơn". Đêm nào cũng vậy, cứ gần sáng là mẹ tôi dậy làm bánh. Tiếng chày thình thịch khua vang. Mẹ tôi tay giã lá khúc, tay véo bột nặn bánh nhanh nhẹn gọn ghẽ. Đầu mẹ gật gật theo nhịp nảy của chày.

Ngày anh em tôi còn nhỏ, mỗi buổi sáng dậy là mùi thơm hơi nóng của bánh khúc béo ngậy phả ngay vào mũi. Bốn anh em tôi nhỏm dậy hít hà. Mẹ tôi đã dành sẵn bốn cái bánh khúc gói trong lá chuối. Chúng tôi chỉ việc đánh răng rửa mặt xong là sà vào ăn ngấu nghiến. Loáng cái đã hết. Đứa nọ nhìn đứa kia, liếm môi, thèm thuồng. Nhưng ngày ấy, cái thời bao cấp  ấy, lo cho bốn đứa con ăn no mặc ấm đã là quá sức của mẹ lắm rồi. Còn mẹ tôi khi ấy đã băng qua cầu Phú Lương với chõ bánh khúc nóng cạnh sườn. Chõ được đặt trong một cái thúng to, xung quanh chèn bao tải cũ, bên trên đậy tấm vỉ đan bằng cói. Nồi bánh khúc của mẹ bán hết vèo. Người mua chủ yếu là thợ thuyền và học sinh. Bán hết, mẹ tôi lại một lần nữa vượt qua cầu trở về cho kịp kẻng ra đồng. Ngày nào cũng như vậy. Bất kể ngày mưa hay giá rét. Ngồi một chỗ, bán mãi thành quen. Người ta không còn gọi ngã ba Phú Lương nữa mà gọi chệch đi là ngã ba bánh khúc.

Hồi còn ở Trường Sơn, nhất là những lúc nằm phục kích chờ giặc tới, mùi bánh khúc béo ngậy của mẹ dường như phảng phất quanh tôi. Nước miếng trong miệng ứa ra. Tôi quả quyết với đồng đội: "Thú ăn sáng mùa đông, có lẽ trên đời này không gì ngon bằng ăn bánh khúc. Vị ngọt ngậy, béo bùi thơm thảo của nó còn đọng mãi trên đầu lưỡi. Nó không lạnh ngắt như bánh chưng, không nhạt hoét như bánh giò, không đắng nghét như cà phê". Nghe tôi kể, khối thằng cười ruồi. Tôi bảo: "Không tin hả? Khi nào hòa bình, mời tất cả chúng mày về quê tao. Mẹ tao sẽ đãi một bữa bánh khúc ra trò. Lúc ấy chúng mày mới trắng mắt ra".

Năm nay làng tôi lại vào đám. Mẹ tôi già lắm. Bà không còn đủ sức để giã lá rau khúc nữa. Bốn anh em tôi lại đoảng quá. Chẳng đứa nào chịu theo nghề của mẹ. Cô em út tôi xì một cái rõ to: "Ôi dào, thời buổi này mà ông anh tôi còn nghĩ đến xôi lá khúc. Lạc hậu”. Nghe nói làng năm nay mở hội to lắm.Vừa qua chùa Cửu Phẩm làng tôi được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nơi đây từng là chỉ huy sở của du kích đánh phá các đoàn tàu chở hàng của địch trong thời kỳ chống Pháp. Chùa lại mới được tu bổ tôn tạo nên to đẹp lắm. Khách thập phương, dân bản địa đi lại tấp nập đông vui. Những mâm lễ đầy ắp xôi thịt, bia lon thuốc lá bánh kẹo. Đồ ngoại lấn át đồ nội. Tôi để ý trên các mâm lễ bây giờ không còn đĩa xôi rau khúc truyền thống nữa. Một nỗi buồn ập đến, nhẹ nhàng, bâng khuâng và nuối tiếc.

Tôi đi lang thang dọc đê. Tiết trời đang vào xuân. Mưa bụi bay bay phả cái lạnh se se vào mặt. Thế là mất rồi, qua thật rồi một chút hồn quê.


Tản văn củaNGUYỄN SỸ ĐOÀN
(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Một chút hồn quê