Mấy chục năm trước, bố mẹ Đao dắt díu nhau về đây khai hoang, nơi này còn là mảnh đất chó ăn đá gà ăn sỏi không ai thèm ở.
Đao ngồi bất động trên chiếc xe lăn, mắt đăm đăm nhìn về khoảng đất trống trước nhà. Tiếng trì tụng chú đại bi bay theo đàn chim sẻ. Lâu lắm mới có một ngày nắng vàng tươi chảy tràn trên tán vải, tán xoài. Trên mảnh sân rêu lún phún xanh và lối cổng cỏ mọc um tùm do ít chân người lui tới. Nếu không có bà Bảy và những bài kinh chú thì nơi đây chẳng khác gì căn nhà hoang, u ám. Đao ngửa mặt nhìn trời, trong hốc mắt của cậu chảy ra hai dòng trong vắt.
Đao ngồi một mình trong căn nhà ba gian lạnh lẽo. Hơi lạnh tỏa ra từ lòng đất, những bức tường câm và cơ thể teo tóp của Đao. Hôm nay bà Bảy giúp Đao bày ra trước sân một mâm cúng chay. Đao dùng đôi tay khòng khèo cắm xuống khoảng đất trống trước nhà ba que hương rồi ngồi đó nhìn những đốm đỏ lập lòe lịm dần trong bóng tối.
Bà Bảy đã đọc xong thần chú vãng sanh cầu nguyện Đức Phật cứ độ cho Chơn linh người chết được vãn sanh về cõi Tây phương cực lạc. Bà đứng dậy vỗ nhẹ xuống đôi vai chỉ toàn da bọc xương của Đao, thủ thỉ: “Vào nhà thôi con, sương lạnh lắm”.
Đêm nào Đao cũng cố ru mình chìm vào giấc ngủ. Cậu mong giấc mơ sẽ đưa mình trở về thời thơ ấu. Khi ấy căn nhà này còn tràn ngập tiếng cười dẫu bữa no bữa đói. Trong căn bếp xập xệ cả nhà quây quần chia cho nhau từng bát cơm độn sắn, từng củ khoai nướng vẫn còn ấm bụi tro. Mùa rét, mẹ mở chiếc hòm đạn lấy quần áo ấm ra. Mùi gián hôi xì xộc vào cánh mũi nhưng đứa nào cũng háo hức khi gặp lại những chiếc áo len cũ của mình. Bãi đất trống trước nhà mẹ căng một dây phơi dài. Buổi sáng mấy anh em ngồi trên hè chờ nắng liếm dần vào những ngón chân lạnh ngắt, mắt ngó dây phơi. Anh Triều thường nghiêng cổ đếm xem có bao nhiêu giọt nước rơi xuống từ quần áo mẹ vừa mới giặt phơi. Rồi chạy ùa ra bãi đất chơi bắn bi, đánh khăng, đánh đáo. Chị Nụ hay dúi vào tay Đao những hòn bi ve trong vắt thủ thỉ bảo “mắt của trời”. Anh Cả lúi húi gọi những con cun cút ẩn mình dưới cát. “Cun cút ơi lên đây tao cho hớp rượu”. Ngoài cổng, bố say ngoắc cần câu, chân nam đá chân chiêu, miệng gọi “mấy đứa đâu rồi?”. Sáng nào bố cũng đi mổ lợn thuê về. Quà cho lũ con đói hau háu là khúc lòng dồi vẫn còn nóng hổi. Tụi Đao vừa ăn vừa nghe bố chửi mẹ. Mẹ không nói gì, chỉ lặng lẽ vun những luống rau xanh ngắt.
Một hôm mẹ mang về cây hoa dẻ trồng xuống mảnh đất trước nhà. Đến mùa hè những bông hoa vàng ươm tỏa hương thơm dìu dịu. Vào ngày rằm, mùng một là mẹ hái đĩa hoa dẻ đặt lên bàn thờ thắp hương các cụ. Đao nhớ khuôn mặt mẹ mỗi lần nhìn ngắm cây hoa. Trong đôi mắt nhàu nhĩ lo toan ấy chợt ánh lên niềm vui như tia nắng ấm. Mẹ là thế, bà luôn vịn vào những điều tốt đẹp để đi qua chuỗi ngày cực nhọc. Nhà tuy nghèo nhưng lúc nào cũng thấy có hoa. Hoa dọc hai bên cổng, hoa mọc trong chiếc ấm sứt quai, cái vại sành bố đập vỡ sau một cơn say bí tỉ. Đao vẫn nhớ tường nhà đắp bằng đất trộn rơm. Giữa vết nứt toang hoác ở chân tường mẹ trồng vào một cây cối xay vàng. Nhưng bố không thích hoa, mọi vui buồn của ông đều ngâm trong chai rượu. Mỗi lần nhìn ra trước sân nhà bố thường bảo “đã rách nát lại còn hoa hoét”. Lần nào đi uống rượu về bố cũng gầm ghè dọa chặt cây hoa dẻ. Thế rồi có lần bố chặt thật, quẳng ra giữa sân bảo “bao giờ khô thì con Nụ mang vào đun bếp”. Nhưng cây dẻ không chết, sau mỗi lần bố chặt là nó lại bật chồi tươi tốt ngạo nghễ đơm bông. Sống với bố, mẹ không khóc, chỉ buồn. Đao muốn ôm lấy mẹ bằng đôi bàn tay khòng khoèo. Muốn nói với mẹ lời an ủi vỗ về nhưng ngọng nghịu mãi không thành tiếng.
Mẹ đi qua bốn lần sinh nở, đứa nào cũng đẻ rơi ở giữa đồng. Ba anh chị đều khỏe mạnh bình thường, chỉ có Đao là sinh ra đã bị tật nguyền. Đao là cái gai trong mắt bố. Lúc còn sống bà nội hay chì chiết mẹ “chỉ vì cô sinh ra một đứa người chẳng ra người nên con trai tôi mới sinh ra rượu chè như thế”. Có lần bố dằn mạnh chai rượu xuống mâm cơm, chỉ thẳng vào mặt mẹ mà chửi “kiếp trước cô ăn ở thế nào mà kiếp này sinh ra nó hả?”. Mẹ càng thương Đao hơn. Trong thìa cơm mẹ bón cho Đao như có cả nước mắt lẫn vào. Năm Đao hai mươi tuổi thì mẹ mất. Khi ấy chị Nụ đã theo chồng, anh Cả đã có con, còn anh Triều thì vừa cưới vợ. Lúc mẹ còn sống thì ở chung ăn chung. Đến khi mẹ mất rồi thì nhà ai người ấy ăn dù vẫn thổi lửa trên cùng một bếp. Đao bữa no bữa đói…
Từ lúc mẹ còn sống, bãi đất trống trước nhà đã được quây lại làm nơi giết mổ bò. Đêm nào Đao cũng phải nghe tiếng những chú bò tội nghiệp rống lên thảm thiết. Tiếng bò con gọi mẹ. Tiếng bò mẹ gọi con. Những tiếng kêu đau đớn như thấu tận trời cao đã khiến đầu óc Đao đau buốt. Đao ước gì mình có một đôi chân lành lặn để đứng dậy, lao ra giằng lấy cái búa trên tay bố. Suốt nhiều năm về sau, cứ mỗi lần nhắm mắt lại, trong đầu Đao lại hiện ra hình ảnh bố cầm búa đập vào đầu trâu bò. Mùi máu tanh nồng lợm giọng. Đã có lúc Đao nghĩ chắc tại mẹ không thể chịu được tiếng kêu rống mỗi đêm nên ôm đầu mà chết. Mẹ nằm co quắp lại, hai tay ôm đầu bịt kín tai. Những ngón tay bấu chặt vào chân tóc. Lần này cây hoa dẻ chết thật mà không phải vì vết dao sắc lẹm. Cây chết vì đêm nào bố cũng đổ máu vào gốc nó. Mùi máu át mùi hoa. Màu máu át màu hoa. Chỉ còn thấy những cánh hoa đỏ bầm rũ xuống.
Kể từ ngày nhà mổ trâu bò là anh Cả, anh Triều cũng bắt đầu uống rượu. Đêm nào cũng vậy, cứ giết mổ xong xuôi là mấy bố con lại xẻo lấy một ít nội tạng mang luộc lên nhắm rượu. Lúc đầu chỉ uống chút ít cho ấm người giữa đêm sương lạnh. Sau quen mồm uống mãi thành nghiện lúc nào không biết. Rượu vào lời ra, cãi nhau ỏm tỏi. Những lúc ấy Đao càng nhớ mẹ hơn. Mẹ như cái gáy sách, cái bản lề. Mẹ còn thì nền nếp còn. Bát cơm độn sắn khoai còn san sẻ cho nhau. Khi mẹ mất thì anh em cũng tan đàn xẻ nghé.
*
Mấy chục năm trước, bố mẹ Đao dắt díu nhau về đây khai hoang, nơi này còn là mảnh đất chó ăn đá gà ăn sỏi không ai thèm ở. Xung quanh không một bóng cây, nắng dội bỏng rát từng viên sỏi. Những nhát cuốc bổ xuống còn tóe lửa. Trồng cây gì, nuôi con gì cũng còi cọc mãi không chịu lớn. Hồi ấy chỉ có con đường mòn chạy qua trước nhà. Thỉnh thoảng mới thấy có bóng người đi qua, thường là cụ già bán hàng rong trên chiếc xe đạp cũ. Mẹ mong mãi mới có người đến làm hàng xóm. Đất nhà bên cạnh, lúc phân chia ranh giới hàng rào bố chẳng đắn đo gì đã cầm cuốc chỉnh cho vuông vắn. Phần đất thừa cả trăm mét vuông chia cho nhà hàng xóm. Sau này xã đo đạc lại làm "sổ đỏ", đất nhà mình nghiễm nhiên thành đất của người ta. Chẳng ai nghĩ có một ngày đường lớn mở ra, đất đai trở nên có giá trị. Phần đất thừa năm xưa hàng xóm mang bán được hai trăm triệu đồng đút túi. Nhìn người ta ăn sung mặc sướng từ mảnh đất của mình, bố Đao tức nghẹn. Ông nói “phải chi ngày xưa không dại dột thì bây giờ có phải đỡ nghèo”.
Rồi cái tin dự án đường cao tốc sẽ chạy qua làng khiến bao người nhấp nhổm. Anh cả bảo:
- Nghe nói họ đền bù cao lắm. Đất rộng như nhà mình có khi cả tỷ.
- Thế thì anh em mình sắp đổi đời rồi. Có tiền em sẽ thay cái xe máy cũ, nó ngốn nhiều xăng đến phát điên-Triều than.
- Tao mà có tiền sẽ xây cái nhà thật to. Mấy chục năm ở chật chội mãi chán lắm rồi.
Bố vứt cái dao xuống sân bảo:
- Đất đai là của tao. Tao còn chưa sốt sắng mà chúng mày cứ nhắng hết lên.
Đao ngồi trong bóng đêm nghe những lời sinh sự cục cằn khô như sỏi đá. Nếu còn sống thì giờ này mẹ đang nằm thủ thỉ với Đao. Mẹ kể chuyện đẻ rơi mấy anh em Đao ở giữa luống cày, cả cơ thể lấm lem toàn đất. Chuyện lúc mang bầu các con mẹ chẳng thèm ăn gì ngoài đất. Mẹ nói đất có vị mặn và bùi. Đất hồi sinh sự sống. Đất ủ ấm hạt mầm. Đất nuôi cây bật chồi tươi tốt. Nên cả đời mẹ lúi húi với đất, hết rừng đến ruộng. Mẹ không bao giờ bỏ đất hoang. Mẹ nói người ta yêu những bông hoa một phần cũng vì nó mọc lên từ đất. Nhưng mẹ không còn sống để thấy đất còn có thể thổi bùng lên tham vọng khiến con người ta mất hết tính người. Mấy anh em nhà Đao cầm dao cuốc tranh nhau từng mét đất. Trên mảnh đất mẹ từng trồng những luống hoa đã có người nằm xuống. Cuối cùng đường cao tốc không chạy qua mảnh đất nhà Đao. Cơn sốt giá đất nguội dần, đã lâu không thấy có người nào nhắc đến chuyện bán mua đất trong làng. Ai đó chép miệng than “cơn sốt ảo nhưng mạng người thì thật”. Rồi sau này khi sống hết đời người, đất đai nhà cửa thênh thang đâu ai mang đi được.
Mấy anh chị em cũng vì đất mà người còn người mất. Những vết thương khiến máu mủ ruột rà từ mặt lẫn nhau. Bố vì buồn chán mà uống rượu nhiều hơn. Trong một cơn say ông bị ngã xuống chiếc hồ đầu làng mà không ai biết. Đao còn một mình trên mảnh đất được phân chia chừa lại. Vì thương Đao nên bà Bảy hàng xóm thường ghé đến chăm nom. Bà đã đi sang phía bên kia con dốc của cuộc đời. Nghiệm ra thứ tài sản mình để lại nhân gian chẳng phải là tiền bạc, đất đai. Chỉ có tình người dành cho nhau là quý hơn tất cả. Người làng thường nghe thấy tiếng gõ mõ tụng kinh bay ra từ khu vườn nhà Đao. Họ nói “lạ lắm, mỗi khi tiếng trì chú vang lên là họ thấy khu vườn bừng nắng. Lũ chim sẻ, chim sâu lích chích bay nhảy trong vườn. Vẻ u ám mọi khi dường như tan biến”. Chỉ những lúc như thế Đao mới thanh thản chìm vào giấc ngủ không mộng mị. Hôm nghe Đao bày tỏ ý muốn lúc chết sẽ hiến toàn bộ chỗ đất còn lại cho ngôi trường cấp 2 ở kế bên, bà Bảy rơi nước mắt. Gặp ai trong làng bà cũng kể “nó đâu chỉ hiến đất. Thằng nhỏ xem ti vi thấy người ta hiến tạng còn đang đòi tôi dẫn đi đăng ký. Nó như hòn ngọc ẩn giữa cuộc đời đầy sỏi đá này”.
Bà Bảy nói “để chợ phiên lần này mua lấy gói hạt giống hoa mang về rắc lên mảnh đất trống trước nhà”. Bà tin rằng đất sẽ bao dung cho những nỗi đau mà con người gây ra. Đất sẽ lại chắt chiu yêu thương nuôi mùa lá, mùa hoa. Đất vẫn sẽ hiền hòa như chưa từng vấy máu. Bầy chim sẻ cắp từng hạt kinh chú bay đi. Chúng gieo vào nhân gian mầm thiện lành độ lượng…
Truyện ngắn của VŨ THỊ HUYỀN TRANG