Nghề nuôi cá quả (cá lóc) ở nước ta đang phát triển mạnh. Tuy nhiên, con giống hoàn toàn dựa vào nguồn giống tự nhiên nên người dân cần chủ động sản xuất.
1. Đặc điểm sinh sản: Mùa vụ sinh sản tự nhiên trùng với mùa mưa, nhưng khi môi trường thích hợp cá có thể đẻ quanh năm. Trứng cá quả nổi trên mặt nước trong tổ làm bằng thực vật. Cá đực tích cực canh giữ trứng và cá con sau khi nở.
2. Nuôi vỗ và tiêu chuẩn chọn cá bố mẹ: Cá trên 1 tuổi, thể trọng từ 0,5 - 1,5 kg hoặc lớn hơn. Cơ thể hoàn chỉnh, không bị dị tật.
Phân biệt cá đực cái: Cá đực có phần ngực và bụng nhỏ màu xám đen, lỗ sinh dục hẹp, nhỏ và hơi lõm vào. Đoạn từ vây ngực đến lỗ sinh dục có các nốt vằn đen đậm. Vây bụng đen, pha màu hồng nhạt; cá cái có vây ngực trắng, hoặc hơi vàng; vây bụng màu xám trong hoặc vàng nhạt. Bụng màu xám trắng hoặc nhạt. Đoạn từ vây bụng đến lỗ sinh dục không có vằn đen hoặc vằn đen không rõ. Lỗ sinh dục tròn có màu hồng nhạt.
Ao nuôi vỗ: Ao nuôi vỗ có diện tích từ 200 - 300 m2, mức nước sâu trên 0,8 - 1 m. Đặc biệt trong ao phải có chỗ nông 0,3 - 0,4 m trồng cỏ làm nơi cá đẻ trứng. Bờ ao chắc chắn không bị rò rỉ, cao hơn mức nước từ 0,4 - 0,5m hoặc căng lưới chắn cao 1,5 m chống cá nhảy ra ngoài. Trong ao thả bèo tây khoảng 20% diện tích ao. Nước ao cần trong sạch. Ao cá đẻ cần chọn nơi yên tĩnh, hạn chế người qua lại để cá không bị sợ hãi khi sinh sản. Không nên để bóng râm che phủ ao.
Mùa vụ sinh sản tự nhiên từ tháng 3 - 4 và kéo dài tới tháng 9 - 10. Cá đẻ rộ vào những tháng đầu mùa mưa lớn, tập trung từ tháng 5 đến tháng 7. Cá bố mẹ được nuôi vỗ 2 - 3 tháng trước mùa sinh sản. Mật độ nuôi 1 - 4 con/m2 (cỡ cá 0,5 - 0,7 kg/con) tùy điều kiện nuôi cụ thể.
Thức ăn tươi sống như cá tạp, tôm tép, ếch nhái, giun đất… khẩu phần thức ăn hằng ngày bằng từ 5 - 8% thể trọng. Trước vụ cá đẻ phải kiểm tra độ thành thục của cá, chọn những cá đã phát dục tốt để tiến hành sinh sản nhân tạo. Có thể cá tự đẻ trong ao hoặc tiêm chất kích thích cá đẻ. Cá có tập tính đẻ trong tổ, tổ đẻ dạng hình vuông mỗi cạnh 60 cm, làm bằng khung tre hoặc gỗ (đường kính thanh tre, gỗ làm khung khoảng 3 cm). Dùng dây móc xếp thành chùm và cắt thành từng đoạn dài 45 cm, dùng nẹp tre hoặc gỗ buộc ép các chùm dây móc vào khung tổ đẻ, sao cho phần dây móc tỏa về phía trong khung dài 15 cm, phần chìm thẳng xuống nước dài 30 cm. Không có dây móc có thể lấy cỏ buộc vào khung tổ. Khi cá sắp đẻ thì đặt tổ đẻ nhân tạo vào chỗ nông ở ao, ghìm cố định bằng cọc nhỏ. Đặt tổ xong thả một ít lá cỏ vào khung tổ. Cá sẽ tìm đến và đẻ trứng vào tổ. Một tổ đẻ chỉ nên 1-2 cặp cá đẻ. Mỗi buổi sáng phải quan sát và vớt trứng kịp thời. Cần dùng các dụng cụ vớt. Vớt trứng phải thao tác nhẹ nhàng để trứng khỏi bị dập vỡ hư hỏng.
Trứng tốt có màu vàng nhạt và trong suốt, trứng không thụ tinh có màu trắng đục. Trứng được vớt ấp trong thau chậu đường kính 60 cm ấp 5.000 - 8.000 trứng/thau (đường kính 60 cm). Hoặc có thể ấp trong bể vòng nước chảy nhẹ mật độ 100 nghìn trứng/m2. Thời gian ấp 2 - 3 ngày. Sau khi nở 3 - 4 ngày cá bột tiêu hết noãn hoàng và bắt đầu ăn thức ăn ngoài.
3. Ương cá bột thành cá giống: Diện tích ao ương từ 100 - 300 m2, ao được tháo cạn, phơi đáy, bón 10 kg vôi/100 m2 diệt tạp và các mầm bệnh, bón lót 30 - 40 kg phân chuồng/100 m2. Trước khi thả cá 2-3 ngày lấy nước vào đầy ao. Mật độ 100 - 150 con/m2. 10 ngày đầu cho ăn động vật phù du 200 ml/1.000 cá bột, ngày cho ăn 3 lần. Ngày thứ 11 - 20 cho ăn giun chỉ, tôm tép nhỏ, ngày cho ăn 1 lần. Ngày thứ 21-50 cho ăn cá, tép băm nhỏ, khẩu phần thức ăn hằng ngày 10-15% trọng lượng. Sau 2,5 - 3 tháng ương, cá đạt cỡ cá giống 8-12 cm (15-17 gam).
Theo Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2