Hoạt động xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa được ghi nhận trong các bộ sử do Quốc sử quán triều Nguyễn và Nội các triều Nguyễn biên soạn.
>>Kỳ 2: Hoàng Sa trong thư tịch cổ thời chúa Nguyễn và thời Tây Sơn
>> Kỳ 3: Hoàng Sa trong châu bản triều Nguyễn
>> Kỳ 4: Hoàng Sa trong châu bản triều Nguyễn
(Phần 1)
Đoạn viết về hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải trong Đại Nam thực lục tiền biên. Quyển 10, tờ 24, bản ký hiệu R.777, lưu trữ tại Thư viện Quốc gia ở Hà Nội
Đoạn viết việc vua Minh Mạng chuẩn y lời tâu của bộ Công, sai Thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật ra Hoàng Sa vẽ bản đồ và cắm mốc chủ quyền vào năm 1836 trong Đại Nam thực lục chính biên. Đệ II kỷ, quyển 165, tờ 25, bản ký hiệu R.777, lưu trữ tại Thư viện Quốc gia ở Hà Nội
Hoạt động xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa không chỉ được phản ánh trong châu bản triều Nguyễn, mà còn được ghi nhận trong các bộ sử do Quốc sử quán triều Nguyễn và Nội các triều Nguyễn biên soạn.
Đại Nam thực lục là bộ thông sử do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Phần thứ nhất gọi là Đại Nam thực lục tiền biên, gồm 12 quyển, ghi chép các sự kiện lịch sử diễn ra ở Đàng Trong từ khi Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa (1558) đến khi chúa Nguyễn Phúc Thuần đánh mất ngôi chúa (1777). Phần thứ hai là Đại Nam thực lục chính biên, gồm 587 quyển, ghi chép các sự kiện lịch sử diễn ra ở Việt Nam từ khi Nguyễn Ánh cầm quyền ở phương Nam cho đến hết triều vua Đồng Khánh (1778 - 1889). Trong bộ sử này có nhiều đoạn viết về quá trình khai phá, xác lập và thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa từ thời chúa Nguyễn đến thời Nguyễn.
Đại Nam thực lục tiền biên viết về hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thời chúa Nguyễn: “Tháng 7 mùa thu, dân đội Hoàng Sa gặp gió to dạt vào hải phận Quỳnh Châu, thuộc nước Thanh. Quan Tổng đốc nhà Thanh chu cấp cho đầy đủ rồi sai đưa về. Chúa sai viết thư gửi qua… Ngoài cửa biển An Vĩnh huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi có hơn 130 cồn, cách xa hoặc một ngày đường hoặc vài canh, chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là bãi Vạn Lý Hoàng Sa, trên có giếng nước ngọt, sản vật có hải sâm đồi mồi, ốc hoa, giải, ba ba. Thời quốc sơ đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ tháng 3 đi thuyền ra đảo, 3 ngày 3 đêm thì tới nơi, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân thôn Tứ Chính hoặc xã Cảnh Dương, [phủ] Bình Thuận, sung vào, được lệnh đi thuyền nhỏ ra các đảo Côn Lôn ở Bắc Hải thu lượm hóa vật, cũng do đội Hoàng Sa cai quản luôn” (quyển 10, tờ 24).
Đại Nam thực lục chính biên viết nhiều về hoạt động xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa dưới thời Nguyễn:
- Năm Gia Long thứ 2 (1803), vua ra lệnh “lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa”, tiếp tục hoạt động khai thác các nguồn lợi ở Hoàng Sa (đệ I kỷ, quyển 22, tờ 2).
- Năm Gia Long thứ 14 (1815), vua “sai bọn Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy trình” (kỷ I, quyển 50, tờ 6).
- Năm Gia Long thứ 15 (1816), vua “lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để xem xét và đo đạc thủy trình” (kỷ I, quyển 52, tờ 15).
- Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), vua “sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến xứ Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ. Khi trở về, vua hỏi về những thứ sản vật ở đấy. Sĩ tâu: Nơi này là bãi cát giữa bể, man mác không bờ chỉ có người nhà Thanh đi lại đánh bắt chim cá mà thôi. Nhân đó, đem dâng vua những thứ chim, cá, ba ba, ốc, sò, ngao đã bắt được ở nơi đó, đều là những vật lạ, ít thấy. Vua vời thị thần đến xem và thưởng những người đi về, tiền bạc có khác nhau” (kỷ II, quyển 122, tờ 22).
- Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), vua sai chở vật liệu ra “dựng miếu thờ thần ở Hoàng Sa. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm biển khắc 4 chữ "Vạn lý ba bình" (muôn dặm sóng yên), cồn cát trắng chu vi 1.070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều là đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái, vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến nay mới sai Cai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ, giám thành cùng phu thuyền 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu cách tòa miếu cổ 7 trượng. Bên tả miếu dựng bia đá, phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về” (kỷ II, quyển 154, tờ 4).
- Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), bộ Công tâu: “Cương giới vùng biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, chọn phái biền binh, thủy quân và vệ Giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng 2 thì đến Quảng Ngãi, giao cho [2 tỉnh] Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình. Vua y lời tâu, sai thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái cọc gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi, mỗi cọc gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, trên cọc khắc dòng chữ: Năm Minh Mạng thứ 17, Bính Thân, Chánh đội trưởng thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc, đến đây khắc lưu chữ này” (kỷ II, quyển 165, tờ 24-25).
- Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), triều đình tâu trình đề nghị xử phạt viên quan đã có những hành động càn quấy tại các thôn làng ở Quảng Ngãi trong thời gian được phái đi công vụ ở Hoàng Sa. Vua phê: “Ngũ đẳng thị vệ Nguyễn Hoán được phái đi đến Hoàng Sa thuộc tỉnh [Quảng] Ngãi, tự tiện quấy rối các làng. Hoán phải tội lưu (đi đày)” (kỷ III, quyển 49, tờ 5).
TS. TRẦN ĐỨC ANH SƠN