Cách đây 40 năm, ngày 27-1-1973, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” (gọi tắt là Hiệp định Pa-ri về Việt Nam) đã được ký kết.
Trưởng đoàn Đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Pa-ri
Hiệp định đã buộc Mỹ phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Việc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri là một thắng lợi to lớn, tạo ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam.
Hiệp định là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta, chưa bao giờ có cuộc đàm phán nào kéo dài như tại Hội nghị Pa-ri, từ ngày 15-3-1968 đến 27-1-1973, cụ thể kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với 202 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta trên bàn thương lượng đã giành được thắng lợi quan trọng, to lớn về nhiều mặt.
Giai đoạn đàm phán dưới thời Tổng thống Mỹ Giôn-xơn diễn ra từ ngày 15-3-1968 đến 31-10-1968. Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải ngừng ném bom từ Ninh Bình trở ra phía Bắc và ngồi đàm phán với Việt Nam tại Pa-ri. Cuộc đàm phán giữa đoàn đại biểu Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức bắt đầu ngày 15-3-1968 tại Trung tâm Hội nghị quốc tế ở Pa-ri, đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh Việt Nam: Đọ sức trên mặt trận ngoại giao, mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”.
Giai đoạn này, ta dùng đàm phán để tiến công cô lập địch; vạch trần âm mưu của địch kéo dài chiến tranh, tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh do Mỹ phát động; tranh thủ dư luận phục vụ cho cuộc đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường; yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện miền Bắc Việt Nam.
Kết thúc giai đoạn này, Tổng thống Giôn-xơn tuyên bố chấm dứt ném bom và chấp nhận để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) tham gia Hội nghị Pa-ri. Tháng 1-1969, Ních-xơn nhậm chức Tổng thống Mỹ. Đến ngày 18-1-1969, hội nghị 4 bên họp phiên đầu tiên dưới hình thức bàn tròn, đoàn đại biểu của MTDTGPMNVN xếp ngang hàng với các đoàn đại biểu khác. Trên bàn đàm phán, cuộc đấu trí diễn ra quyết liệt giữa các bên, đặc biệt là giữa cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và trợ lý Tổng thống Mỹ Kít-xinh-giơ. Ngày 8-10-1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo Hiệp định với những điều khoản yêu cầu Mỹ rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam.
Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí, nhưng đến ngày 22-10-1972, phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Ngày 12-12-1972, cuộc đàm phán phải tạm dừng. Đêm 18-12-1972, Ních-xơn ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm, Việt Nam đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược, lập nên chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không", gây thiệt hại nặng nề cho lực lượng không quân chiến lược Mỹ. Đây là đòn quyết định nhất buộc Ních-xơn phải tuyên bố ngừng ném bom từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị cho phía Mỹ gặp đoàn đại biểu Việt Nam tại Pa-ri để ký hiệp định chấm dứt chiến tranh. Ngày 23-1-1973, cố vấn Lê Đức Thọ cùng trợ lý Tổng thống Mỹ Kít-xinh-giơ đã ký tắt văn bản Hiệp định. Ngày 27-1-1973, đã diễn ra lễ ký chính thức Hiệp định tại Pa-ri, buộc Mỹ phải cuốn cờ rút khỏi miền Nam.
Hiệp định Pa-ri là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Với Hiệp định, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh, rút khỏi Việt Nam và Đông Dương, chấm dứt dính líu quân sự; chính quyền Sài Gòn mất chỗ dựa về quân sự, bị suy yếu và lún sâu vào khủng hoảng chính trị. Ta giữ nguyên lực lượng và lớn mạnh lên, xuất hiện cục diện mới, so sánh lực lượng mới ở miền Nam. Với Hiệp định Pa-ri, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, tạo so sánh lực lượng mới, thuận lợi cho mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành giải phóng miền Nam. Vì vậy, chiến thắng mùa xuân 1975 hoàn toàn giải phóng miền Nam không tách khỏi thắng lợi của Hiệp định Pa-ri.
Hiệp định Pa-ri 1973 phản ánh thắng lợi ở mức cao trong bối cảnh quốc tế có thuận lợi nhưng cũng phức tạp. Việt Nam đã tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN, các nước không liên kết, nhân dân thế giới và hình thành trên thực tế “mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”. Sự hình thành của mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam đã thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế, kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân. Hiệp định Pa-ri và thắng lợi của nhân dân Việt Nam góp phần mở ra một chương mới trong cục diện Đông Nam Á: Mỹ rút lui về quân sự khỏi Đông Dương và Đông Nam Á; khối SEATO giải tán; xu thế hoà bình, trung lập phát triển mạnh trong khu vực, mở ra khả năng thiết lập một khu vực hòa bình, hữu nghị ổn định.
Nhân tố đóng vai trò quyết định đưa đến thắng lợi của cuộc đàm phán Pa-ri, đó là sự lãnh đạo sáng suốt, đầy trí tuệ, rất bản lĩnh của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường lối quốc tế độc lập tự chủ, đúng đắn sáng tạo.
Hoạt động ngoại giao đã góp phần tranh thủ dư luận thế giới, cô lập kẻ thù, hỗ trợ chiến trường và ngược lại, chiến thắng trên chiến trường đã hỗ trợ to lớn cho công tác vận động quốc tế trong các cuộc đàm phán; buộc địch xuống thang từng bước, làm thay đổi so sánh lực lượng, thế trận trên chiến trường.
Một nhân tố quan trọng góp phần tạo ra chiến thắng chính là chúng ta đã chủ động thúc đẩy hình thành được mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Đó là nêu cao chính nghĩa của cuộc đấu tranh của ta, vạch trần tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ; quyết tâm giành độc lập, thế tất thắng của ta và thế thất bại của Mỹ; nêu cao thiện chí hòa bình của Việt Nam; tố cáo tội ác chiến tranh, âm mưu xuyên tạc, lừa bịp của Mỹ.
Cùng với đó là sự chỉ đạo sát sao, sáng suốt của Bác Hồ, Bộ Chính trị và đóng góp to lớn, sáng tạo của Đoàn đàm phán. Đoàn đàm phán đã tìm tòi, xây dựng lập luận sắc bén, có sức tấn công, thuyết phục về những vấn đề quan trọng như quân miền Bắc ở lại miền Nam và quân Mỹ, chư hầu phải rút khỏi Việt Nam; đưa ra nhiều sáng kiến như: Giải pháp đồng bộ 10 điểm, 8 điểm, 7 điểm...; tranh thủ thời cơ và tạo thời cơ, biết nhân nhượng trên cơ sở “dĩ bất biến, ứng vạn biến".
Thắng lợi của Hiệp định Pa-ri khẳng định, chỉ có thể thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ của mình nếu kiên định tinh thần độc lập, tự chủ, tự mình quyết định công việc của mình; đồng thời luôn coi trọng và ra sức tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế; xem ngoại giao là một mặt trận để huy động, phối hợp mọi lực lượng tham gia đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn. Chủ động, linh hoạt sử dụng nhiều hình thức tổ chức, nhiều phương thức đấu tranh, huy động nhiều lực lượng, phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và đối ngoại nhân dân; với hai nền ngoại giao miền Bắc và miền Nam phối hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn ở trong nước cũng như trên quốc tế và đặc biệt tại bàn đàm phán Pa-ri.
MẠNH HÙNG