Ông Đỗ Đức Quân, Vụ phó Vụ Năng lượng (Bộ Công thương) cho biết, hầu hết các dự án thủy điện lớn đều chậm tiến độ, như Cửa Đạt, Đồng Nai 3, 4; nhiều dự án đã buộc phải điều chỉnh lại tiến độ như Bản Trát (chủ đầu tư là EVN). Đó là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu điện như hiện nay.
Do chậm tiến độ nên Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng 1 vẫn chưa hòa được lưới điện quốc gia |
Tiến độ của các dự án nhiệt điện chạy than còn ì ạch hơn nữa. Trongcuộc họp mới đây giữa Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn dầukhí quốc gia Việt Nam (PVN), Tập đoàn than và khoáng sản (TKV) về tiếnđộ của các dự án điện, ông Hoàng Tiến Dũng, Viện phó Viện Năng lượng đãcông bố con số “giật mình”: 100% dự án nhiệt điện chạy than chậm tiếnđộ. Có nhà máy chậm mất 3 - 4 năm, có dự án 10 năm không thực hiện đượckéo dài từ tổng sơ đồ điện 4 đến nay vẫn chưa xong.
Hai nhà máy nhiệt điện lớn là Hải Phòng 1, 2 (công suất 1.200 MW) vàQuảng Ninh 1, 2 (1.200 MW) - công suất xấp xỉ bằng tổng công suất cácnhà máy nhiệt điện hiện có tại miền Bắc, dự kiến nếu đi vào vận hànhtrong năm nay, sẽ bổ sung một nguồn lớn cho hệ thống điện quốc gia,giải tỏa tình trạng thiếu điện mỗi khi thủy điện gặp khó do khô hạn.Song trên thực tế, cả hai nguồn lớn này đều chậm tiến độ. Cụ thể, nhiệtđiện Hải Phòng 1 (công suất 600 MW) khởi công từ tháng 11.2005, dự kiếnchính thức vận hành vào tháng 9.2008, nhưng đã chậm tiến độ gần 20tháng. Chưa kể, sau 2 lần chạy thử đã xảy ra sự cố khiến tổ máy 1 phảidừng hoạt động từ cuối năm 2009 đến nay.
Theokết quả kiểm tra tiến độ các dự án điện thuộc tổng sơ đồ VI do Bộ Côngthương công bố mới đây, trong số 35 dự án nhà máy điện đang thi công,chỉ có 5 dự án (14%) đang bám tiến độ gồm thủy điện Srêpok 3, 4, SôngTranh 2, Khe Bố và nhiệt điện Uông Bí mở rộng 2. Còn lại hầu hết các dựán đều chậm tiến độ từ 2 đến 6 tháng. Nếu không tính 350 MW bị chậm củanăm 2009 chuyển sang, dự kiến tổng công suất các nguồn điện đưa vào vậnhành trong năm 2010 chỉ đạt 2.612 MW, thấp hơn 723 MW so với yêu cầu là3.335 MW. Các dự án dự kiến đi vào vận hành trong thời gian đầu năm đềubị chậm khiến việc cân đối cung cấp điện cho các tháng mùa khô năm naygặp khó khăn. |
Với Hải Phòng 2, tình trạng còn bi đát hơn, hợp đồng EPC (tư vấn, thiếtkế - cung cấp thiết bị - xây lắp, vận hành) được ký từ tháng 7.2007nhưng đến nay mới chỉ dừng ở khâu giải phóng mặt bằng. Hải Phòng 2 ìạch do khó khăn về vốn, EVN muốn giảm tỷ lệ góp vốn từ 87,5% xuống 60%,trong khi hợp đồng vay vốn với một ngân hàng Trung Quốc lại chưa thông.
Tiến độ thi công của nhiệt điện Quảng Ninh 1 (công suất 600 MW)cũng đã chậm 14 tháng so với tiến độ cấp Chứng chỉ nghiệm thu tạm thời.
Với 13 dự án nhiệt điện chạy than (tổng công suất lên tới 13.800 MW,mà cuối năm 2008 EVN đã từ chối nhận đầu tư), Thủ tướng đã giao cho cáctập đoàn triển khai, nhưng đến nay chỉ có PVN đang làm nhiệt điện VũngÁng, các dự án còn lại đều án binh bất động.
Chủ đầu tư và nhà thầu đều yếu
Theo ông Hoàng Tiến Dũng, có hàng loạt lý do dẫn đến sự chậm trễnày, từ quy hoạch bất cập, chồng chéo ở các địa phương, đến giá điệnkhông khuyến khích nhà đầu tư, việc cung cấp than hạn chế, nhưng nguyênnhân lớn nhất vẫn là việc khó thu xếp vốn và năng lực hạn chế của chủđầu tư lẫn nhà thầu.
Ông Lê Tuấn Phong, Vụ phó phụ trách nhiệt điện của Vụ Năng lượngcũng cho rằng, lỗi chậm tiến độ do cơ chế đấu thầu phức tạp, kéo dài,thu xếp vốn rất khó khăn, đặc biệt năng lực nhiều nhà thầu Trung Quốckhông đáp ứng được yêu cầu.
Từng phàn nàn với cơ quan quản lý về vấn đề này, ông Nguyễn ĐứcThảo, Trưởng ban điện của Tập đoàn than - khoáng sản VN (TKV) cho rằng,giá bán điện thấp thì không chọn được nhà đầu tư có kinh nghiệm. ÔngHoàng Tiến Dũng cũng đánh giá nhiều nhà thầu nước ngoài năng lực rấtđáng ngờ, song cái khó của chủ đầu tư ở chỗ, tổng mức đầu tư thấp, nênchỉ lựa chọn được nhà thầu năng lực kém, giá thành thiết bị thấp...không đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư. Nhà máy nhiệt điện Na Dươngkhi đi vào vận hành chậm tới 2 năm cũng vì lý do này. Song cũng theoông Dũng, không chỉ nhà thầu mà bản thân năng lực các chủ đầu tư vẫncòn khá hạn chế.
Câu chuyện khó khăn về vốn, giải phóng mặt bằng, năng lực nhàthầu... mà các chủ đầu tư đưa ra mỗi khi lý giải cho việc dự án chậmtiến độ không mới. Tại sao với kinh nghiệm làm điện hàng chục năm, vànhận được rất nhiều hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước, song các chủ đầutư vẫn không cải thiện được tình trạng này là câu hỏi đáng suy nghĩ?
(Theo Thanh niên)