Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV

16/08/2010 05:08

Để phục vụ việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân, Báo Hải Dương xin giới thiệu toàn văn Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV.

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ MỌI NGUỒN LỰC, PHÁT TRIỂN NHANH, BỀN VỮNG, PHẤN ĐẤU ĐẾN NĂM 2020 HẢI DƯƠNG TRỞ THÀNH TỈNH CÔNG NGHIỆP


(Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XIV tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV)


Đồng chí Bùi Thanh Quyến, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh nói chuyện với các đại biểu dự Đại hội Đảng bộ huyện Thanh Hà
Phần thứ nhất


TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XIV


Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV được triển khai thực hiện trong bối cảnh có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức phức tạp khó lường, nhất là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế quốc tế đã tác động trực tiếp, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh.

Song, với nỗ lực quyết tâm phấn đấu, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã vượt qua mọi khó khăn thách thức giành được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá, đạt cao hơn mức tăng trưởng bình quân chung của cả nước, văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, an ninh, quốc phòng đảm bảo, công tác xây dựng Đảng và hoạt động của hệ thống chính trị có chuyển biến tích cực.

A. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân 9,7%/năm (mục tiêu tăng 11,5%/năm, cả nước tăng 6,9%/năm)(1). Quy mô kinh tế của tỉnh được nâng lên đáng kể, tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2010 gấp 2,19 lần so với năm 2005(2). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ: tỷ trọng Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản - Công nghiệp, xây dựng - Dịch vụ chuyển dịch từ 27,1% - 43,6% - 29,3% năm 2005 sang 24,0% - 44,5% - 31,5% năm 2010 (mục tiêu 19% - 48% - 33%). Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tương ứng từ 70,5%-15,8%-13,7% năm 2005 sang 55,0% - 26,0% - 19,0% năm 2010.

2. Nông nghiệp phát triển tương đối ổn định, kinh tế nông thôn tiếp tục được đổi mới

Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp trong các năm qua, nhưng sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản phát triển tương đối ổn định, giá trị sản xuất tăng bình quân 2,1%/năm (mục tiêu tăng 4,5%); trong đó: trồng trọt và chăn nuôi tăng bình quân 1,1%/năm (mục tiêu 3,6%/năm), lâm nghiệp tăng bình quân 4,93%/năm (mục tiêu 4,3%/năm), thuỷ sản tăng bình quân 11,9%/năm (mục tiêu 11-12%/năm). Công tác quản lý, phát triển và bảo vệ rừng được thực hiện tốt.


Đường 62m và cầu Lộ Cương hoàn thành, góp phần phát triển kinh tế - xã hội
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt, từng bước tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi - thuỷ sản. Quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho các đơn vị sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, cơ bản đảm bảo cung ứng đủ giống có chất lượng cho sản xuất. Nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp được triển khai, thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhất là cơ cấu trà lúa, giống lúa, tăng diện tích lúa lai và lúa chất lượng cao (từ 15,5% năm 2006 lên 40,6% năm 2010). Năng suất lúa bình quân đạt 125 tạ/ha/năm, bình quân lương thực đầu người 450 kg/năm. Bước đầu xây dựng và triển khai được một số mô hình sản xuất rau quả theo công nghệ tiến tiến(3). Hệ số sử dụng đất năm 2010 đạt 2,33 lần, tăng 0,2 lần so với năm 2005. Giá trị sản phẩm trên 1 ha đất nông nghiệp năm 2010 ước đạt 72 triệu đồng (mục tiêu 55 triệu đồng/ha). Chăn nuôi - thuỷ sản từng bước phát triển theo hướng tập trung, nâng cao chất lượng, quy mô và đảm bảo vệ sinh môi trường; phát hiện, xử lý kịp thời các dịch bệnh xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm(4). Diện tích, năng suất và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản liên tục tăng cao qua các năm(5).

Cơ cấu kinh tế nông thôn tiếp tục có bước chuyển dịch tích cực, hạ tầng kỹ thuật khu vực nông thôn được cải thiện khá rõ. Tiểu thủ công nghiệp và làng nghề được khuyến khích phát triển; số lượng làng có nghề tăng, quy mô nhiều làng nghề được mở rộng; giá trị sản xuất của làng nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 27,3%/năm (mục tiêu 25%/năm). Giai đoạn 2006 - 2010 đã đầu tư xây mới 28 trạm cấp nước tập trung, tỷ lệ hộ dân nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh năm 2010 đạt 85% (mục tiêu 90%). Cải tạo, nâng cấp trên 3.000 km đường giao thông nông thôn, có trên 100 xã đã cứng hoá 100% các tuyến đường nội bộ. Công tác khuyến nông, dạy nghề, tập huấn cho nông dân được duy trì. Cơ giới hoá các khâu trong sản xuất nông nghiệp có bước tiến đáng kể(6), góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Quan tâm phát triển kinh tế nông nghiệp theo mô hình trang trại, toàn tỉnh đã có 1.500 trang trại, tăng hơn 2 lần so với năm 2005, hình thành được 5 khu chăn nuôi gia súc, gia cầm và 8 vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung. Quy mô trang trại ngày càng được mở rộng, giá trị sản xuất bình quân 1 trang trại năm 2010 đạt khoảng 400 triệu đồng, tăng gần 2 lần so với năm 2005.

3. Công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại, quy mô, năng lực sản xuất một số ngành, sản phẩm được nâng lên

Giá trị sản xuất khu vực công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 12,9%/năm (mục tiêu tăng 20%/năm); trong đó công nghiệp tăng bình quân 13,5%/năm, quy mô công nghiệp năm 2010 gấp gần hai lần so với năm 2005. Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng công nghiệp nhà nước, tăng tỷ trọng công nghiệp ngoài nhà nước và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp nhà nước - ngoài nhà nước - khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2005 là 41,2% - 20,9% - 37,9%, chuyển sang năm 2010 là 27% - 25,5% - 47,5%).

Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng đã khai thác tốt tiềm năng, lợi thế, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đạt bình quân 13,9%/năm. Các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, công nghiệp công nghệ cao có mức tăng trưởng khá (bình quân 15,2%/năm), trong đó công nghiệp cơ khí, điện tử chiếm vị trí quan trọng và tăng 2 lần so với năm 2005. Duy trì và mở rộng sản xuất công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, tăng cả về số cơ sở, thu hút lao động và giá trị sản xuất (tăng bình quân 14,9%/năm). Toàn tỉnh đã quy hoạch 20 khu công nghiệp, 32 cụm công nghiệp, trong đó nhiều khu công nghiệp đạt tỷ lệ lấp đầy cao. Nhiều dự án mới đi vào hoạt động làm tăng năng lực và quy mô sản xuất của một số ngành sản xuất mũi nhọn như: vật liệu xây dựng, điện tử, sản xuất thép, chế biến nông sản thực phẩm...; sản lượng xi măng tăng trên 2,3 lần, thức ăn chăn nuôi tăng 2,7 lần so với năm 2005. Ngày càng có nhiều dự án quy mô lớn, trình độ công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực công nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.


Quảng trường 30-10 (TP Hải Dương)
4. Dịch vụ phát triển khá nhanh, đáp ứng tốt hơn cho sản xuất và đời sống

Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 14,8%/năm (mục tiêu 13%/năm). Một số lĩnh vực dịch vụ tăng nhanh cả về quy mô và chất lượng như: xuất khẩu, bưu chính viễn thông, vận tải, tài chính, bảo hiểm…

Thương mại nội địa phát triển khá, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội tăng bình quân 21,2%/năm. Hệ thống hạ tầng thương mại được đầu tư, tăng cả về quy mô và chất lượng(7). Tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu 5 năm đạt 2 tỷ 724 triệu USD, tăng 49%/năm (mục tiêu 25%/năm); cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng giá trị hàng công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng.

Hoạt động du lịch phát triển khá, năm 2010 đạt 2,17 triệu lượt khách du lịch, tăng bình quân 20,6%/năm; trong đó lượng khách lưu trú tăng bình quân 17,8%/năm (mục tiêu 18%/năm), khách quốc tế tăng bình quân 18,7%/năm; doanh thu dịch vụ du lịch tăng bình quân 15,2%/năm (mục tiêu 22%/năm). Các cơ sở lưu trú du lịch phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng(8).

Dịch vụ bưu chính - viễn thông phát triển mạnh, doanh thu tăng bình quân 29,9%/năm (mục tiêu 24 - 25%). Dịch vụ vận tải phát triển nhanh, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia với nhiều loại hình hoạt động, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân(9). Giá trị sản xuất ngành vận tải tăng bình quân 32%/năm; các chỉ tiêu về khối lượng hàng hoá, hành khách vận chuyển và luân chuyển đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.

Dịch vụ tài chính, ngân hàng có bước phát triển nhanh về quy mô và chất lượng(10). Tổng nguồn vốn huy động toàn ngành tăng bình quân 47,45%/năm, trong đó nguồn vốn huy động tại chỗ tăng bình quân 47,98%, gấp hơn 2 lần so với kế hoạch đề ra (mục tiêu 20%/năm). Tổng dư nợ cho vay tăng bình quân 42%/năm (mục tiêu 25%/năm). Chất lượng tín dụng được nâng lên, tỷ lệ nợ xấu thấp và có xu hướng giảm dần qua các năm(11). Dịch vụ bảo hiểm phát triển, tổng doanh thu bảo hiểm tăng bình quân 22%/năm (mục tiêu 24-25%).  

5. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ

Môi trường đầu tư của tỉnh tiếp tục được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Hoạt động xúc tiến đầu tư được đổi mới cả về nội dung và hình thức. Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư đạt kết quả bước đầu đã tác động thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển. Trong 5 năm, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn đạt trên 70,6 nghìn tỷ đồng (mục tiêu 40.550 tỷ đồng), tăng bình quân 24,7%/năm; trong đó vốn nhà nước chiếm 25,6%, tăng bình quân 19%/năm; vốn đầu tư từ khu vực dân doanh chiếm 45,5%, tăng bình quân 25,7%/năm; vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28,9%, tăng bình quân 29,9%/năm. Trong tổng cơ cấu đầu tư, tỷ trọng đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 7,8% tổng vốn đầu tư xã hội, tăng bình quân 15,9%/năm; khu vực công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 53,9%, tăng bình quân 26,1%/năm; khu vực dịch vụ chiếm 38,3%, tăng bình quân 24,3%/năm. Công tác quản lý nhà nước về đầu tư có bước chuyển biến, nhất là nguồn vốn từ ngân sách, tập trung xây dựng mới những công trình trọng điểm, thiết yếu, khắc phục dần tình trạng đầu tư dàn trải.

Tiếp tục đầu tư tu bổ hệ thống đê điều, thuỷ lợi nội đồng, kiên cố hoá kênh mương. Xây dựng mới và sửa chữa nâng cấp các trạm bơm đáp ứng tốt yêu cầu tưới, tiêu. Xây dựng và nâng cấp hệ thống lưới điện, đảm bảo cung cấp điện phục vụ sản xuất tại các khu vực công nghiệp tập trung. Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp nhiều tuyến đường quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện quan trọng(12); phối hợp triển khai xây dựng đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo điều kiện để thành phố Hải Dương được công nhận là đô thị loại II; nâng cấp huyện Chí Linh lên thị xã. Tập trung đầu tư hạ tầng phục vụ cho các khu, cụm công nghiệp; xây dựng mở rộng hệ thống cấp nước sạch theo tiêu chuẩn cho các đô thị và một số thị trấn trong tỉnh. Kết cấu hạ tầng văn hoá - xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng: 95% trạm y tế xã được xây dựng kiên cố (mục tiêu 100%), 81,3% phòng học được xây dựng kiên cố (mục tiêu 95%), 736 nhà văn hoá thôn, khu dân cư được đầu tư xây mới; hoàn thành và đưa vào sử dụng Bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện lao và bệnh phổi; đang triển khai xây dựng Thư viện tổng hợp tỉnh, nâng cấp và bảo tồn nhiều di tích văn hoá, lịch sử(13); xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất ngành thể dục thể thao và hệ thống thông tin, truyền thông. Cơ bản hoàn thiện trụ sở làm việc khối cơ quan Đảng, chính quyền cấp huyện; hỗ trợ đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cho trên 100 xã.

Đổi mới phương thức, thủ tục và tăng cường quản lý nguồn thu, chống thất thu, quan tâm khai thác có hiệu quả các nguồn thu. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tăng khá, từ 2.450 tỷ đồng năm 2005 lên 4.730 tỷ đồng năm 2010, bình quân tăng 9,15%/năm, trong đó thu nội địa tăng 15%/năm (mục tiêu tăng 10%/năm). Chi ngân sách cơ bản đáp ứng cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi các chương trình mục tiêu, đảm bảo an sinh xã hội và các nhu cầu thiết yếu khác.


TP Hải Dương hôm nay
6. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển đúng định hướng

Các thành phần kinh tế, loại hình kinh tế tiếp tục được quan tâm tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng để phát triển. Tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng từ 54,8% năm 2005 lên 56,4% năm 2010, khu vực đầu tư nước ngoài tăng từ 13,8% năm 2005 lên 17,8% năm 2010.

Kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực trọng yếu, có vai trò quyết định đến sự ổn định của nền kinh tế và cung cấp dịch vụ cơ bản cho người dân. Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý; chuyển đổi một số doanh nghiệp hoạt động công ích và đơn vị sự nghiệp có thu thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần. Kinh tế tập thể từng bước được củng cố phát triển, có vai trò hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; kinh tế hộ phát triển đa dạng với nhiều ngành nghề, góp phần tạo việc làm tại chỗ và nâng cao thu nhập cho người dân.

Kinh tế ngoài nhà nước có bước phát triển cả về quy mô và chất lượng; trong đó kinh tế tư nhân phát triển nhanh (giai đoạn 2006 - 2010 đã đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thành lập mới 2.700 doanh nghiệp).

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh, nhất là lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Trong giai đoạn 2006 - 2010, cấp giấy phép cho 133 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký 1 tỷ 670,5 triệu USD, nâng tổng số vốn đăng ký đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh đạt gần 4 tỷ USD, trong đó một số dự án có suất đầu tư lớn(14). 

7. Công tác lập quy hoạch, quản lý quy hoạch và thực hiện quy hoạch có chuyển biến

Giai đoạn 2006 - 2010 đã triển khai lập và thực hiện các đồ án quy hoạch cơ bản, mang tính tổng thể, chiến lược như: quy hoạch xây dựng vùng tỉnh và quy hoạch tổng thể phát triển các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, du lịch, văn hoá, thể thao, giáo dục, y tế, dạy nghề...; quy hoạch chi tiết xây dựng một số khu, cụm công nghiệp, khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc; định hướng quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Dương, thị xã Chí Linh và một số quy hoạch chuyên ngành làm cơ sở cho việc quản lý, điều hành, định hướng phát triển trước mắt cũng như lâu dài.

Điều chỉnh quy hoạch xây dựng một số thị trấn, lập và phê duyệt quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn và khu vực trung tâm cho 42 xã; bước đầu triển khai thực hiện các đồ án quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Công tác quản lý và thực hiện quy hoạch được quan tâm hơn, từng bước gắn quy hoạch giao thông với quy hoạch xây dựng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu cho hầu hết các khu vực đô thị và một phần ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh.

II. PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ - XÃ HỘI

1. Giáo dục - đào tạo tiếp tục giữ vững thành tích và phát triển

Mạng lưới, quy mô giáo dục các cấp học tiếp tục mở rộng; chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở được nâng cao, phổ cập trung học phổ thông được thực hiện từng bước; giáo dục đại học, chuyên nghiệp phát triển hơn(15). Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được chú trọng, đã có 300 trường đạt chuẩn, gấp 2 lần năm 2005; trong đó số lượng trường tiểu học, trung học cơ sở đạt chuẩn vượt chỉ tiêu đề ra. Chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn không ngừng tiến bộ, tỷ lệ xếp loại học sinh(16), đỗ tốt nghiệp, điểm bình quân vào đại học, học sinh giỏi quốc gia, quốc tế liên tục đứng trong tốp đầu cả nước.Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và nhà giáo đều đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo. Cơ sở vật chất không ngừng được bổ sung, nâng cấp và xây dựng mới(17). Thiết bị dạy học được tăng cường, công nghệ tin học được áp dụng rộng rãi trong dạy và học. Công tác xã hội hoá giáo dục, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đã trở thành phong trào được các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị và các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng.

2. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt một số tiến bộ mới

Tập trung củng cố bộ máy tổ chức và phân cấp quản lý hệ thống y tế theo hướng nâng cao chất lượng; duy trì mạng lưới y tế công lập và đẩy mạnh phát triển cơ sở y, dược tư nhân(18). Nâng cấp tương đối đồng bộ và tăng chất lượng khám chữa bệnh tuyến tỉnh, tuyến huyện, quan tâm củng cố tuyến cơ sở (100% trạm y tế xã, phường, thị trấn có đủ nhân lực theo cơ cấu tối thiểu, 67,3% số trạm có bác sĩ công tác thường xuyên). Chú trọng công tác y tế dự phòng, chủ động khống chế và ngăn chặn được các dịch bệnh nguy hiểm trên địa bàn tỉnh.

Thực hiện cơ bản các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế: trên 99% trẻ em trong độ tuổi được tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn 18%, 100% trẻ dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh miễn phí; 24,5 giường bệnh/1 vạn dân 5; số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế tăng từ 43,3% năm 2005 lên 90,5% năm 2010 (mục tiêu 100%); số xã tham gia vào chương trình kiểm soát, điều trị bệnh nhân lao đạt 100%; trên 50% dân số có thẻ bảo hiểm y tế (tăng 20% so với năm 2005), trong đó người nghèo là 100%; số xã triển khai khám chữa bệnh cho người có thẻ bảo hiểm y tế đạt 85%.

Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động y tế gắn với đẩy mạnh công tác xã hội hoá về y tế; coi trọng chất lượng nguồn nhân lực y tế, tỷ lệ bác sĩ/1 vạn dân đạt 6,04. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng. Công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ và dân số, kế hoạch hoá gia đình tiếp tục được quan tâm thực hiện; duy trì quy mô dân số ổn định, năm 2010 tỷ suất tăng dân số tự nhiên là 9,6‰, tỷ lệ giảm sinh 0,18‰.


Lễ công bố TP Hải Dương trở thành đô thị loại II
3. Văn hoá, thể dục thể thao tiếp tục phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân được nâng lên

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” có bước phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Đến nay toàn tỉnh có 83,38% số gia đình văn hoá, 57,1% số làng, khu dân cư văn hoá, 81,13% số làng, khu dân cư tiên tiến và 85,6% số cơ quan, đơn vị văn hóa. Cuộc vận động thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang được toàn xã hội quan tâm, công tác quản lý lễ hội từng bước đi vào nề nếp.

Triển khai thực hiện tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác gia đình đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Nhiều thiết chế văn hoá được đầu tư xây dựng; số thôn, khu dân cư có nhà văn hoá đạt tỷ lệ 78,1%; tỉnh đã đầu tư gần 58,5 tỷ đồng hỗ trợ xây dựng, nâng cấp 1.103/1.431 nhà văn hoá thôn, khu dân cư; hệ thống thư viện và tủ sách pháp luật cơ sở ngày một hoàn thiện. Hoạt động văn hoá, văn học nghệ thuật ngày càng được nâng cao về chất lượng, bám sát nhiệm vụ chính trị, đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hoá đạt được một số kết quả, đã có 143 di tích được xếp hạng quốc gia, 91 di tích xếp hạng cấp tỉnh; hệ thống di tích, nhà bảo tàng, nhà truyền thống, nhà tưởng niệm các danh nhân tiêu biểu tiếp tục được kiểm kê, quy hoạch bảo tồn và tu bổ, nâng cấp; hoạt động sưu tầm, điều tra, phục dựng các giá trị văn hoá phi vật thể đạt chất lượng.

Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì và có bước phát triển. Thể thao thành tích cao ngày càng được quan tâm đầu tư, giữ vững thành tích trong 10 tỉnh, thành mạnh nhất toàn quốc. Công tác xã hội hoá hoạt động văn hoá, thể thao bước đầu được xã hội quan tâm; cơ sở vật chất văn hoá, thể dục thể thao từng bước được đầu tư và nâng cao chất lượng.

4. Thông tin và truyền thông phát triển mạnh

Hoạt động của hệ thống phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí, đặc san, bản tin của tỉnh luôn bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần tích cực vào công tác thông tin tuyên truyền, định hướng xã hội, động viên nguồn lực cho xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trên địa bàn tỉnh hiện đang phát hành khoảng 550 loại báo, tạp chí, bản tin (số lượng phát hành hằng năm tăng 6%) và có 187 điểm bưu điện văn hoá xã. Công tác quản lý hoạt động xuất bản, in ấn, phát hành đảm bảo chặt chẽ và đúng quy định.

Mạng lưới thông tin và truyền thông được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, công nghệ, nhân lực và nâng cao chất lượng, nhất là Đài Phát thanh -Truyền hình tỉnh, Báo Hải Dương, đài truyền thanh cấp huyện và cơ sở, truyền hình cáp. 100% số xã trong tỉnh có dịch vụ điện thoại, 100% số cơ sở đào tạo được kết nối internet băng rộng, tỷ lệ điện thoại thuê bao cố định đạt 17,6 máy/100dân, hoạt động internet và công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi, đáp ứng tốt nhiệm vụ công tác và nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân.

5. Công tác lao động, việc làm và thực hiện chính sách xã hội được đẩy mạnh

Hệ thống đào tạo nghề được mở rộng, đến năm 2010 có 58 cơ sở, tăng 30 cơ sở so với năm 2005; hình thức, nội dung và chất lượng dạy nghề từng bước được đổi mới, nâng cao, bước đầu có sự gắn kết với các cơ sở sử dụng lao động. Giai đoạn 2006 - 2010 đã đào tạo được trên 170 nghìn người, đạt 164,7% kế hoạch; tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 41%.

Thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách hỗ trợ tạo việc làm (tổng vốn cho vay hỗ trợ giải quyết việc làm trong 5 năm đạt 121.892 triệu đồng), đồng thời tăng cường huy động các nguồn vốn để mở rộng sản xuất và đẩy mạnh hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động. Bình quân mỗi năm giải quyết, tạo việc làm mới cho trên 3 vạn lao động (mục tiêu: 3 vạn). Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 2010 là 4,8% (năm 2005 là 5,5%); tỷ lệ thời gian lao động ở nông thôn năm 2010 là 82,5% (năm 2005 là 79,0%).

Quan tâm và thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo đối với người có công, gia đình chính sách, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người già cô đơn, gia đình nghèo, khó khăn; đảm bảo chế độ, phụ cấp, trợ cấp cho các đối tượng theo quy định. Đẩy mạnh hoạt động nhân đạo, từ thiện, phong trào đền ơn đáp nghĩa … Thực hiện tốt các chính sách và huy động mọi nguồn lực hỗ trợ giúp đỡ người nghèo như: cho vay đầu tư phát triển sản xuất, cho vay giải quyết việc làm, cho vay và hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người nghèo, miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho bệnh nhân thuộc diện khó khăn; thực hiện các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho người nghèo (tổng kinh phí trên 400 tỷ đồng, chưa kể huy động tài trợ và đóng góp của cộng đồng); hỗ trợ làm mới và sửa chữa nhà cho trên 1.100 hộ nghèo... Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm bình quân 3%/năm (mục tiêu 2%/năm); GDP bình quân đầu người/năm tăng từ 7,9 triệu đồng (499 USD) năm 2005 lên 17,1 triệu đồng (940 USD) năm 2010.

III. TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG VÀ KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ

1. Công tác quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên

Công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản có tiến bộ. Thực hiện rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010, kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006 - 2010. Toàn tỉnh đã thực hiện chuyển đổi trên 5.358 ha đất (trong đó có 3.846 ha đất nông nghiệp) sang phát triển công nghiệp, dịch vụ là 2.794 ha, giao thông 1.207 ha, nhà ở 166 ha và phục vụ mục đích khác 1.055 ha. Đến năm 2010 diện tích đất đã giao cho các khu công nghiệp tập trung là 1.443 ha, trong đó diện tích dành cho xây dựng nhà máy 1.000 ha. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nông thôn đạt 92,42%, đất ở đô thị đạt 83,62%, đang triển khai thực hiện cấp giấy chứng nhận đất nông nghiệp sau chuyển đổi.

Đã lập quy hoạch tổng thể khai thác khoáng sản đến năm 2020 và quy hoạch chi tiết một số vùng nguyên liệu. Tăng cường công tác kiểm tra hoạt động lập bến bãi khai thác cát, than, đất đồi trái phép trên địa bàn. Quan tâm đầu tư quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh,  đến nay cơ bản phủ xong đất trống, đồi núi trọc, chuyển đổi mục đích sử dụng đối với một số diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng sang rừng sản xuất để nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên rừng.

2. Công tác bảo vệ môi trường

Quản lý nhà nước về môi trường có chuyển biến. Hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật về bảo vệ môi trường được đẩy mạnh. Hoàn thành quy hoạch tổng thể môi trường của tỉnh đến năm 2020 và quy hoạch môi trường tại các địa phương tập trung nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp. Công tác xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường được quan tâm, huy động nhiều nguồn vốn đầu tư cho xử lý môi trường.

Một số biện pháp xử lý môi trường nông thôn đã được áp dụng (xây dựng hầm khí sinh học biogas, hình thành tổ thu gom rác, xây dựng bãi chôn lấp rác sinh hoạt…). Triển khai xây dựng Dự án nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt tại Thanh Hà, dự án xử lý nước thải thành phố Hải Dương. Đến nay, 100% các thị trấn đã quy hoạch địa điểm chôn lấp rác tập trung; đa số các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, tuyến huyện được trang bị lò đốt rác thải y tế và có hệ thống xử lý rác thải, nước thải đạt tiêu chuẩn. Bước đầu tiến hành hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải công nghiệp nguy hại. Các dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh trước khi triển khai có đánh giá tác động môi trường, một số cơ sở sản xuất lớn ở trong và ngoài khu công nghiệp đã lắp đặt và sử dụng thiết bị chống ô nhiễm môi trường (xử lý nước thải, rác thải, khói bụi của nhà máy sản xuất xi măng…); xử lý cơ bản việc sản xuất gạch bằng lò thủ công truyền thống và 12 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh.

3. Hoạt động khoa học và công nghệ được chú trọng

Hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng có hiệu quả. Trong 5 năm đã có 183 nhiệm vụ khoa học và công nghệ được thực hiện với tổng kinh phí đầu tư trên 85 tỷ đồng, bình quân tăng 21%/năm; trong đó đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng chiếm 82%. Phần lớn các nhiệm vụ khoa học và công nghệ được lựa chọn có giá trị ứng dụng trong sản xuất và đời sống; hiệu quả thể hiện khá rõ trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, nhiều biện pháp canh tác tiến bộ và giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng tốt được nghiên cứu, khảo nghiệm và nhân rộng. Một số nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã góp phần tích cực tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc về môi trường, phát triển công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, đề xuất các giải pháp về phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá trên địa bàn tỉnh.

IV. AN NINH, QUỐC PHÒNG, THANH TRA, TƯ PHÁP

1. Công tác bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội thực hiện có hiệu quả

Thực hiện nghiêm các quy định về công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, bảo vệ an toàn các mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hoá, các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước và địa phương. Tập trung giải quyết tình hình khiếu kiện phức tạp, bảo đảm tốt an ninh nông thôn, an ninh đô thị, an ninh kinh tế. Thực hiện nghiêm chính sách tôn giáo và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước; phát hiện và xử lý kịp thời các hoạt động lợi dụng tôn giáo và dân tộc gây phương hại đến an ninh quốc gia. Công tác bảo vệ an ninh văn hoá - tư tưởng, an ninh kinh tế, an ninh thông tin được tăng cường.

Tập trung thực hiện các chương trình, đề án phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuý, cờ bạc, mại dâm. Mở nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, truy quét tệ nạn xã hội, triệt phá nhiều tụ điểm cờ bạc, mại dâm gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Đã phát hiện và xử lý 16 vụ phạm tội tham nhũng, 510 vụ phạm tội ma tuý, 815 vụ phạm tội cờ bạc, 34 vụ phạm tội mại dâm, 666 vụ vận chuyển buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu; tỷ lệ khám phá án đạt 75%, trong đó trọng án đạt 90%. Công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội được tăng cường. Thực hiện một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn và ùn tắc giao thông. Công tác vận động toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc và chương trình phối hợp hành động giữa các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh được đẩy mạnh; mô hình làng an toàn, khu dân cư an toàn, cơ quan doanh nghiệp an toàn về an ninh, trật tự  ngày càng được nhân rộng.

2. Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được tăng cường

Chăm lo xây dựng quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh ngày càng vững chắc. Thường xuyên thực hiện nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu theo quy định; rà soát, xây dựng, bổ sung và triển khai thực hiện các phương án, kế hoạch tác chiến. Công tác xây dựng lực lượng bộ đội thường trực, dự bị động viên, dân quân tự vệ, tuyển quân, tuyển sinh quân sự được chỉ đạo chặt chẽ, chất lượng ngày càng được nâng lên. Hoàn thành tốt chương trình huấn luyện tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Tổ chức và thực hiện nghiêm túc các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập quốc phòng - an ninh ở các cấp, huấn luyện, hội thi, hội thao hậu cần, kỹ thuật phục vụ cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

3. Công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có chuyển biến

Công tác thanh tra được xây dựng kế hoạch hằng năm có trọng tâm, trọng điểm, coi trọng việc kiểm tra thực hiện kết luận sau thanh tra; gắn nội dung thanh tra với công tác phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện và ngăn chặn, xử lý một số sai phạm trên các lĩnh vực.

Công tác tiếp dân được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm và duy trì thường xuyên theo đúng luật định, chất lượng giải quyết đơn thư có hiệu quả hơn những năm trước, đạt tỷ lệ 84,7%(19). Số lượt công dân đến phòng tiếp dân của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong tỉnh để khiếu nại, tố cáo có xu hướng giảm dần. Nhiều vụ việc khiếu tố phức tạp, đông người được lãnh đạo tỉnh và cấp uỷ, chính quyền các cấp trực tiếp đối thoại với nhân dân và tập trung giải quyết.

4. Công tác tư pháp và cải cách tư pháp được quan tâm triển khai thực hiện

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai thường xuyên. Công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của tổ chức và nhân dân. Các cơ quan tư pháp đã thực hiện tốt hơn yêu cầu của công tác cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị; việc bắt, giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử thực hiện theo quy định của pháp luật, không để xảy ra oan, sai; phối hợp khắc phục những bất cập trong việc thực hiện tranh tụng tại tòa, đảm bảo quyền dân chủ của luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng(20). Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp có chuyển biến tích cực; công tác giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo phạm nhân, thi hành án dân sự có nhiều tiến bộ. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải cách tư pháp.

V. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN, HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN

1. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng được tăng cường và có nhiều đổi mới

Việc học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết được đổi mới một bước. Cấp ủy các cấp đã coi trọng việc chỉ đạo cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và nghị quyết đại hội đảng các cấp thành các chương trình, kế hoạch hành động, các đề án cụ thể để triển khai thực hiện. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy trong tổ chức, triển khai thực hiện được nâng cao và xác định rõ hơn.

Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được tăng cường. Triển khai thực hiện quy định về “Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trên địa bàn tỉnh Hải Dương” đã phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị làm công tác tư tưởng. Hệ thống đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp được củng cố, kiện toàn cả về số lượng và chất lượng. Các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền đúng định hướng chỉ đạo với các nội dung phong phú, đa dạng, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương. Công tác nắm tình hình và dư luận xã hội được quan tâm. Công tác giáo dục lý luận chính trị có bước phát triển, nội dung chương trình được đổi mới và gắn lý luận với thực tiễn (bình quân mỗi năm có trên 40.000 lượt người được bồi dưỡng, đào tạo về lý luận chính trị, nghiệp vụ công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể). Công tác giáo dục truyền thống thông qua việc đưa lịch sử đảng bộ địa phương vào giảng dạy trong các bậc học phổ thông được đẩy mạnh.

2. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai sâu rộng và đạt kết quả bước đầu

Các cấp ủy đảng trong tỉnh đã thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Bộ chính trị khóa X về tổ chức, triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; thường xuyên củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo, chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình công tác, cụ thể hóa việc triển khai Cuộc vận động phù hợp với từng địa phương, đơn vị. Việc tổ chức học tập các chuyên đề Cuộc vận động được thực hiện đạt kết quả cao, tỉ lệ học tập đạt trên 90%. Hầu hết các cơ sở đã xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức, lối sống phù hợp theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Công tác tuyên truyền triển khai thực hiện, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được các cấp uỷ quan tâm, trong đó đặc biệt coi trọng việc làm theo tấm gương đạo đức của Bác; đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát đảm bảo Cuộc vận động thực hiện theo đúng yêu cầu đặt ra.

Thông qua thực hiện Cuộc vận động, ý thức tự giác rèn luyện về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân bước đầu được nâng lên, biểu hiện qua các hành động tự giác hàng ngày, trong mối quan hệ gia đình, tập thể, cộng đồng. Sự chuyển biến tích cực từ trong nhận thức và hành động về những giá trị to lớn của tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

3. Công tác xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh được quan tâm thực hiện và nâng cao chất lượng

Mô hình tổ chức đảng ở các loại hình từng bước được củng cố, kiện toàn, sắp xếp lại, bổ sung hoàn chỉnh chức năng, nhiệm vụ đảm bảo sự thống nhất, hoạt động có hiệu quả. Đã sắp xếp, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng khối Đảng, đoàn thể, chính quyền cấp huyện và một số cơ quan, đơn vị trên địa bàn. Chỉ đạo mô hình tổ chức đảng trong các hợp tác xã, thí điểm thành lập chi bộ cơ quan xã, phường, thị trấn; kiện toàn, sắp xếp mô hình chi bộ có đông đảng viên và thôn, khu dân cư có nhiều chi bộ ở xã, phường, thị trấn; thành lập đảng bộ Khối doanh nghiệp trực thuộc Tỉnh uỷ. Triển khai thực hiện thí điểm chủ trương đại hội đảng bộ cấp cơ sở trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư ở 26 đảng bộ cơ sở và thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch UBND ở 7 xã, thị trấn đạt kết quả tốt, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện.

Phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh được đẩy mạnh, ngày càng đi vào nề nếp và có hiệu quả thiết thực; các cơ sở đảng yếu kém được quan tâm củng cố, kiện toàn. Hằng năm, tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh đều đạt và vượt chỉ tiêu đại hội đề ra(21) (bình quân đạt 75%, mục tiêu 70%), số cơ sở đảng yếu kém giảm dần(22).

Chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, sinh hoạt chi, đảng bộ có nhiều đổi mới; nội dung sinh hoạt theo chuyên đề được mở rộng. Công tác quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên và thực hiện nghiệp vụ công tác đảng được duy trì có nền nếp hơn. Đánh giá chất lượng đảng viên ngày càng được chú trọng, số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ hằng năm đạt trên trên 85%.

Công tác phát triển đảng viên được quan tâm và nâng cao chất lượng, bình quân mỗi năm kết nạp được gần 2.500 đảng viên, cơ bản đạt chỉ tiêu đề ra.

4. Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai đồng bộ và đạt một số kết quả tích cực

Thực hiện rà soát, xây dựng, bổ sung các quy định, quy chế về công tác cán bộ và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Duy trì thường xuyên, có nền nếp việc đánh giá cán bộ định kỳ hằng năm và đánh giá trước khi quy hoạch, giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển… Việc rà soát, xây dựng quy hoạch cán bộ đảm bảo chặt chẽ, đúng quy trình, dân chủ, công khai và được thực hiện đồng bộ ở cả 3 cấp. Chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho từng đối tượng, từng chức danh cán bộ; quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ được thực hiện với quy trình chặt chẽ, đúng quy chế; cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm cơ bản đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định và phát huy tác dụng tốt. Công tác luân chuyển cán bộ đã gắn với quy hoạch và kế hoạch  đào tạo, bồi dưỡng. Trong 5 năm, các cấp, các ngành trong tỉnh đã luân chuyển được 578 cán bộ, nhiều đồng chí qua luân chuyển có hướng phát triển tốt. Coi trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng công chức, viên chức, đảm bảo dân chủ, công khai. Các chế độ, chính sách đối với cán bộ được quan tâm thực hiện.

Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Mặt trận, các đoàn thể, các cơ quan nhà nước được rà soát, kiện toàn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá X). Tiến hành sắp xếp tổ chức bộ máy và sửa đổi, bổ sung quy định chức năng, nhiệm vụ các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện theo Nghị định số 13 và 14 của Chính phủ; sắp xếp, chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp và từng bước tách các hoạt động sự nghiệp ra khỏi cơ quan hành chính nhà nước; triển khai khoán biên chế, kinh phí và áp dụng chế độ tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, bước đầu đạt kết quả tích cực. Tổ chức của Hội đồng nhân dân các cấp được quan tâm kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên. Ban hành quyết định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy các ban xây dựng Đảng, Văn phòng Tỉnh uỷ, Trường Chính trị tỉnh theo quyết định của Ban Bí thư Trung ương. Đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng Đảng các cấp được quan tâm kiện toàn và từng bước nâng cao chất lượng.

5. Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng được tăng cường, chất lượng và hiệu quả được nâng cao

Tỉnh ủy sớm cụ thể hóa và triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, quy chế, quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị khóa X và ban hành một số quy định, quy chế phối hợp về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Các cấp uỷ đã quan tâm hơn việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện cho UBKT cấp mình thực hiện tốt nhiệm vụ theo quy định. Việc thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá, hàng năm được cấp ủy duy trì có nền nếp và hiệu quả(23); đồng thời triển khai thực hiện tốt các cuộc kiểm tra theo sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên.

Tăng cường chỉ đạo kiểm tra các tổ chức đảng cấp dưới trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; tích cực giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của tổ chức đảng và đảng viên, không để tồn đọng, kéo dài(24). Việc thi hành kỷ luật trong Đảng nhìn chung được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục quy định(25).

6. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị có nhiều đổi mới

Các cấp uỷ đảng đã chú trọng xây dựng và duy trì thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc, chương trình, kế hoạch công tác; quy định rõ chức trách, thẩm quyền của tập thể và cá nhân, chế độ làm việc… Chỉ đạo các mặt công tác có trọng tâm, trọng điểm. Tập trung cải tiến, đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng ra nghị quyết, phát huy được trí tuệ tập thể, dân chủ trong Đảng và vai trò của các cơ quan tham mưu.

Cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và điều hành đã được cụ thể hoá và thực hiện nghiêm túc. Ban thường vụ cấp uỷ và thường trực cấp uỷ duy trì tốt chế độ định kỳ nghe, cho ý kiến định hướng về nội dung chủ yếu các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; về chủ trương triển khai thực hiện những vấn đề quan trọng thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, ngân sách thuộc Uỷ ban nhân dân; về hoạt động của các cơ quan tư pháp bảo đảm tuân thủ pháp luật và phục vụ tích cực nhiệm vụ chính trị của địa phương; về hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; về sự phối hợp giữa các cơ quan đảng, cơ quan chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể trong việc tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương lớn về công tác dân vận ở địa phương… Đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, đảm bảo giữ vững sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, nhưng vẫn phát huy cao nhất vai trò chủ động và chức trách của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, không bao biện làm thay.

7. Công tác cải cách hành chính, hoạt động của Hội đồng nhân dân và  Uỷ ban nhân dân các cấp tiếp tục được đổi mới

Cải cách thủ tục hành chính ở những lĩnh vực bức xúc liên quan đến tổ chức và công dân đạt được một số kết quả tích cực, từng bước đơn giản hóa, thuận tiện và giảm thời gian giải quyết. Xây dựng và thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” trên một số lĩnh vực; rà soát, sửa đổi, bổ sung đề án cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Hoàn thành việc thống kê thủ tục hành chính và công bố bộ thủ tục hành chính dùng chung cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã và bộ thủ tục hành chính của các sở, ngành.

Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp được được nâng lên. Việc tiếp xúc cử tri của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân và công tác dân nguyện được thực hiện tốt hơn; các ý kiến, kiến nghị của cử tri được tổng hợp, phản ánh trong các kỳ họp Hội đồng nhân dân đã được Uỷ ban nhân dân các cấp trả lời, tiếp thu nghiêm túc. Hoạt động giám sát được tăng cường và có nhiều đổi mới, chú trọng giám sát theo chuyên đề, đi sâu vào những vấn đề dư luận xã hội quan tâm và thường phát sinh tiêu cực, sai phạm. Sự phối hợp công tác giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp được duy trì thường xuyên, có hiệu quả.

Uỷ ban nhân dân các cấp từng bước đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao năng lực quản lý, điều hành; triển khai thực hiện nghị quyết của cấp uỷ, Hội đồng nhân dân, văn bản pháp luật của cấp trên. Việc xây dựng và thực hiện chương trình làm việc của Uỷ ban nhân dân các cấp đã từng bước đi vào nền nếp, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp. Sự phối hợp giữa Uỷ ban nhân dân các cấp với các ngành dọc cấp trên và các cơ quan liên quan, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trong chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ được thường xuyên, chặt chẽ, cụ thể hoá bằng quy chế và duy trì thực hiện. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thực hiện phân cấp quản lý nhà nước đối với Uỷ ban nhân dân cấp dưới và các sở, ngành. Phong trào thi đua xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh được đẩy mạnh, tỷ lệ chính quyền cơ sở đạt trong sạch, vững mạnh tăng dần qua các năm(26). 

8. Công tác dân vận được tăng cường, chất lượng hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân được nâng lên

Công tác dân vận đã được cấp uỷ, chính quyền các cấp chú trọng chỉ đạo thực hiện, khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố,  tăng cường. Thực hiện hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần ổn định tình hình chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Hệ thống dân vận các cấp đã chủ động tham mưu, giúp cấp uỷ triển khai các nhiệm vụ công tác dân vận, chỉ đạo thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ xã, phường, thị trấn và duy trì thực hiện tốt quy chế công tác dân vận; tích cực nắm tình hình cơ sở, kịp thời tham mưu cho cấp uỷ lãnh đạo, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, hạn chế phát sinh điểm phức tạp tại cơ sở.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động; đã bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương để triển khai các phong trào thi đua, các cuộc vận động; nâng cao chất lượng các mặt công tác, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên thực hiện. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể đã hướng mạnh về cơ sở, địa bàn thôn, khu dân cư. Nhiều phong trào, cuộc vận động được đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả như: cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo”, phong trào thi đua lao động sáng tạo, sản xuất kinh doanh giỏi, đền ơn đáp nghĩa,  các hoạt động nhân đạo, từ thiện và thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Đa dạng hoá các hình thức hoạt động, nâng cao mô hình hoạt động câu lạc bộ trong các tổ chức đoàn thể để thu hút đông đảo các đoàn viên, hội viên, chức sắc, tôn giáo, dân tộc và các tầng lớp nhân dân tham gia. Quan tâm chăm lo củng cố, xây dựng tổ chức vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và phát triển hệ thống tổ chức (nhất là các ban công tác mặt trận, chi đoàn, chi hội ở sơ sở) và kết nạp đoàn viên, hội. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân chủ động tham gia giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và hoạt động của chính quyền các cấp; tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Vì vậy, vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ngày càng được khẳng định trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội.

9. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm có chuyển biến

Các cấp uỷ đảng, chính quyền, ngành, địa phương đã quan tâm chỉ đạo tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến kịp thời các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; chủ động xây dựng và thực hiện chương trình hành động ở từng địa phương, đơn vị; thành lập, kiện toàn Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở các cấp và các cơ quan theo quy định. Tích cực rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các quy chế, quy định về công tác quản lý nhà nước phù hợp với yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; tập trung chỉ đạo việc điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng.

Thực hiện việc kê khai tài sản đối với cán bộ trong diện quy định(27) và chế độ sử dụng kinh phí, tài sản công. Nhiều đơn vị đã xây dựng quy tắc, chuẩn mực ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ khi thi hành nhiệm vụ. Thí điểm chuyển đổi vị trí công tác của một số công chức ở một số sở, ngành. Chỉ đạo thực hiện nghiêm việc phân bổ dự toán thu chi ngân sách cho các đơn vị và hướng dẫn việc xây dựng dự toán chi tiết, công khai về mua sắm, sử dụng tài sản công, thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ(28). Tăng cường công tác thanh tra chuyên đề về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác đấu tranh với các hành vi tham nhũng, tiêu cực đã được cấp uỷ, thủ trưởng nhiều cơ quan, đơn vị quan tâm thực hiện và có sự gắn kết giữa các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, đạt được một số kết quả bước đầu, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

B. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN

1. Hạn chế, yếu kém


1.1. Lĩnh vực phát triển kinh tế

Một số chỉ tiêu kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra. Kinh tế tăng trưởng chưa bền vững, khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế thấp; quy mô của một số ngành kinh tế còn nhỏ, cơ cấu kinh tế, cơ cấu trong nội bộ từng ngành  chuyển dịch chậm.

Tỷ trọng đầu tư trực tiếp cho phát triển nông nghiệp, nông thôn còn thấp; chất lượng tăng trưởng không cao; diện tích cây vụ đông đạt thấp và giảm dần qua từng năm; phát triển chăn nuôi, thuỷ sản tập trung gặp nhiều khó khăn; các vùng sản xuất hàng hóa tập trung còn nhỏ bé cả về quy mô diện tích và sản lượng.

Công nghiệp phát triển chưa mạnh và chưa có nhiều dự án công nghệ cao, đa số các dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp có quy mô nhỏ. Tiểu, thủ công nghiệp, làng nghề phát triển manh mún, thiếu quy hoạch. Kinh tế dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, năng lực cạnh tranh của nhiều ngành dịch vụ còn yếu, chất lượng hoạt động còn hạn chế, hệ thống hạ tầng các ngành dịch vụ còn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.

Công tác quy hoạch nhìn chung chưa đồng bộ, thiếu tầm nhìn chiến lược. Một số quy hoạch chưa phù hợp với quy hoạch tổng thể và các quy hoạch chuyên ngành đã có, phải điều chỉnh nhiều lần và còn thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, nhất là quy hoạch xây dựng hạ tầng đô thị, dân cư, giao thông, điện, nước, viễn thông. Công tác tổ chức thực hiện quy hoạch và quản lý quy hoạch ở một số lĩnh vực còn nhiều hạn chế. Việc phân cấp quản lý quy hoạch cho chính quyền cấp huyện, cấp xã chưa rõ ràng.

Hiệu quả khai thác, sử dụng vốn đầu tư chưa cao. Tiến độ thực hiện một số dự án còn chậm, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Việc chấp thuận một số dự án đầu tư chưa thực hiện nghiêm túc theo quy hoạch. Việc phân bổ, sử dụng một số nguồn vốn còn dàn trải, thiếu tập trung gây lãng phí. Công tác quản lý, kiểm tra, đôn đốc hoạt động của các dự án sau cấp phép còn hạn chế, xử lý vi phạm chưa nghiêm.

1.2. Lĩnh vực văn hoá - xã hội

Chất lượng giáo dục tại chức còn thấp; một số chỉ tiêu về giáo dục - đào tạo chưa đạt mục tiêu đề ra (xây dựng trường chuẩn quốc gia hệ mầm non, trung học phổ thông, phổ cập giáo dục bậc trung học). Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên chưa tốt.

Việc triển khai thực hiện quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hoá, thể thao và du lịch chưa đảm bảo tiến độ; hệ thống thiết chế văn hoá, thể thao hình thành và phát triển thiếu đồng bộ; một số chỉ tiêu văn hoá - xã hội chưa đạt kế hoạch đề ra; chất lượng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chưa thật sự bền vững.

Đầu tư cho y tế dự phòng còn thấp, phương tiện thiết bị và chất lượng khám chữa bệnh tuyến huyện còn hạn chế, biểu hiện tiêu cực trong khám chữa bệnh vẫn còn tồn tại trong một số bệnh viện; quản lý hành nghề y tế tư nhân ở một số nơi trên địa bàn chưa chặt chẽ; số lượng bác sĩ còn thấp và chưa có chính sách phù hợp để thu hút; công tác thanh tra về an toàn vệ sinh thực phẩm còn hạn chế; tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng và mất cân bằng giới tính ở mức cao.

Chất lượng dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, việc xây dựng và thực hiện kế hoạch giữa đào tạo nghề và sử dụng nghề chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; tình trạng thiếu việc làm hoặc không có việc làm còn nhiều ở cả thành thị và nông thôn. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, sự phân hoá giàu nghèo tiếp tục gia tăng.

Ứng dụng công nghệ thông tin chưa sâu rộng trong các cơ quan hành chính, hạ tầng viễn thông phát triển không đều, công tác quản lý nhà nước về dịch vụ kinh doanh internet trên một số địa bàn trong tỉnh chưa chặt chẽ.

Công tác xã hội hoá các hoạt động giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá chuyển biến chậm.

1.3. Công tác quản lý tài nguyên - môi trường và hoạt động khoa học - công nghệ

Việc quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước trên địa bàn còn chưa đáp ứng yêu cầu. Việc lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch chưa sát thực tế, thường xuyên phải điều chỉnh; tình trạng lãng phí đất đai vẫn xảy ra; công tác đo đạc lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn rất chậm; hiện tượng khai thác không phép, trái phép tài nguyên, khoáng sản còn xảy ra và chưa có biện pháp giải quyết kịp thời, triệt để.

Công tác quản lý nhà nước về môi trường còn lúng túng, sơ hở, thiếu chặt chẽ. Tình trạng ô nhiễm môi trường (nguồn nước, không khí, khói bụi, tiếng ồn, rác thải, nước thải...) diễn ra khá nghiêm trọng ở nhiều nơi đang trở thành vấn đề xã hội cấp bách. Một số cơ sở sản xuất gây ô nhiễm nghiêm trọng, gây bức xúc cho cộng đồng, chậm được xử lý và giải quyết dứt điểm.

Một số đề tài khoa học có hàm lượng khoa học thấp và khả năng ứng dụng trong thực tế chưa cao; còn thiếu nhiệm vụ khoa học và công nghệ đa ngành, liên ngành, liên vùng, trung hạn, dài hạn, các chương trình khoa học công nghệ trọng điểm. Chưa có các biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp.

1.4. Công tác quốc phòng, an ninh, thanh tra, tư pháp

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số địa phương, đơn vị còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự chưa chặt chẽ, thiếu tính đồng bộ. Tình hình tai nạn giao thông và tệ nạn xã hội (nhất là ma tuý, cờ bạc) vẫn diễn biến phức tạp. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân có mặt chưa vững chắc. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng ở một số địa phương chưa chặt chẽ. Chất lượng tổng hợp và trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang tỉnh có mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là chất lượng hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên ở cơ sở.

Chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử một số vụ còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp ở cấp huyện trong xử lý một số vụ việc chưa chặt chẽ. Công tác giám định tư pháp còn nhiều bất cập, một số luật sư thực hiện nhiệm vụ với trách nhiệm chưa cao. Công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có lúc chưa kịp thời, còn biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm. Trong quá trình giải quyết một số vụ việc chưa chú trọng đối thoại với dân, kết luận thiếu tính khả thi, thực hiện kết luận sau thanh tra chưa nghiêm túc, hiệu quả chưa cao.

1.5. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân

Nhìn chung công tác tư tưởng vẫn còn thiếu sức thuyết phục và tính chiến đấu; nội dung, phương pháp chậm được đổi mới, chưa nhạy bén.Việc nắm bắt dư luận xã hội, dự báo tình hình, định hướng tư tưởng còn chậm, bị động trước một số vấn đề phức tạp nảy sinh. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tuy đạt kết quả bước đầu, nhưng tác động chưa đủ mạnh để chặn đà suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng vẫn chưa ngang tầm với yêu cầu của tình hình mới. Việc xây dựng và thực hiện quy chế làm việc của một số cấp uỷ chưa nghiêm túc; chất lượng và nền nếp sinh hoạt Đảng ở nhiều nơi còn hình thức, chậm đổi mới. Tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình chưa cao, còn có biểu hiện nể nang, ngại va chạm. Việc đánh giá cán bộ còn chung chung, thiếu cụ thể, tình trạng nể nang, né tránh trong đánh giá cán bộ vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Công tác quy hoạch cán bộ còn thiếu tầm chiến lược, cơ bản, lâu dài; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, cán bộ nữ chưa đáp ứng yêu cầu. Việc luân chuyển cán bộ từ cơ quan khối nhà nước sang khối Đảng, đoàn thể và ngược lại còn ít.

Một số cấp uỷ, tổ chức đảng thiếu tích cực chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; một số cuộc kiểm tra thực hiện hiệu quả thấp. Uỷ ban kiểm tra của một số tổ chức đảng chưa chủ động nắm tình hình, phát hiện, kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm; còn lúng túng trong triển khai thực hiện nhiệm vụ giám sát.

Chất lượng một số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp còn thấp, nhất là cấp huyện và cấp xã. Công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền một số địa phương còn lúng túng, thiếu chủ động, phối hợp chưa chặt chẽ; cải cách hành chính chuyển biến chậm. Công tác phòng, chống tham nhũng kết quả đạt được chưa cao và chưa coi trọng công tác phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Việc thanh tra, kiểm tra, kết luận và xử lý vi phạm có nơi, có việc chưa kiên quyết và chưa kịp thời.

Nội dung, hình thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tuy có sự đổi mới nhưng còn thiếu các mô hình sáng tạo để thu hút, tập hợp quần chúng; vai trò phản biện xã hội chưa được phát huy. Việc nắm bắt, tham mưu với cấp uỷ giải quyết những vấn đề bức xúc trong nhân dân có việc chưa chủ động, thiếu kịp thời. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ xã, phường, thị trấn ở một số đơn vị chưa nghiêm túc.

2. Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém

2.1. Nguyên nhân khách quan

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với những diễn biến phức tạp, khó lường của thiên nhiên, dịch bệnh đã tác động trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh

Mặt trái của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế thị trường đã và đang đặt ra nhiều vấn đề gay gắt về đời sống, việc làm và tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; trong khi đó các thế lực thù địch chống phá quyết liệt làm nảy sinh phức tạp trong tư tưởng, đạo đức xã hội và tình hình an ninh trật tự.

Hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước, các hướng dẫn của Trung ương còn thiếu đồng bộ, chưa ổn định và nhất quán, đôi khi chậm thể chế hoá, cá biết có chính sách qua thực hiện bộc lộ những hạn chế, bất hợp lý nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung cũng ảnh hưởng đến quá trình thực hiện các nhiệm vụ của địa phương.

2.2- Nguyên nhân chủ quan

Chưa quan tâm đúng mức thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tỷ trọng đầu tư trực tiếp thấp, một số cấp uỷ địa phương còn coi nhẹ sản xuất nông nghiệp. Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực và cải cách hành chính còn nhiều hạn chế, yếu kém (quản lý quy hoạch, đô thị, dự án, đất đai, môi trường...); trong tổ chức thực hiện thiếu kiên quyết. Một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội chưa được thực hiện có hiệu quả, còn nhiều vướng mắc nhưng chậm được điều chỉnh và tháo gỡ kịp thời. Sự  phối kết hợp giữa các cấp, các ngành, đoàn thể và các địa phương chưa chặt chẽ, đồng bộ.

Một số cấp uỷ chưa thực sự coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, công tác vận động quần chúng và phát huy dân chủ xã hội, chưa thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; năng lực lãnh đạo và triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, chưa đồng bộ và thiếu các biện pháp cụ thể.

 Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn hạn chế về chuyên môn, thiếu kinh nghiệm thực tiễn, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút ý chí phấn đấu, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, thiếu gương mẫu, cá biệt còn sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân trong thực thi công vụ nhưng chưa được chấn chỉnh, xử lý kịp thời. Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu một số đơn vị chưa được phát huy và nâng cao.

C- MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA QUA TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XIV

1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, phát huy tính năng động, nhạy bén, sáng tạo, chủ động, kiên quyết trong quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của chính quyền. Xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tập trung chỉ đạo, phân công trách nhiệm rõ ràng; đi đôi với thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giám sát, tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm, kịp thời phát hiện chỉ đạo giải quyết những yếu kém, tháo gỡ khó khăn và những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn.

2. Tập trung thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng để tạo nền tảng vững chắc trong việc chỉ đạo giải quyết các nhiệm vụ đặt ra: Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; coi trọng công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, không ngừng củng cố cơ sở đảng yếu kém, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; chú ý công tác thu hút nhân tài, bố trí và sử dụng cán bộ đúng năng lực sở trường, đặc biệt đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.

3. Vận dụng sáng tạo, linh hoạt các cơ chế chính sách của Nhà nước phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, huy động và khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là xây dựng hạ tầng gắn với các lĩnh vực đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân (hạ tầng giao thông, khu công nghiệp, lưới điện, giáo dục, y tế, văn hoá, giảm nghèo, xây nhà đại đoàn kết...).

4. Tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và cả hệ thống chính trị, làm tốt công tác vận động quần chúng, thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh dân chủ xã, phường, thị trấn; tạo sự đồng thuận cao trong xã hội và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, nhất là những vấn đề nhạy cảm và có liên quan nhiều đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Chú trọng giải quyết kịp thời những kiến nghị chính đáng của quần chúng nhân dân và xử lý kiên quyết, dứt điểm các điểm nóng, bất ổn ngay từ cơ sở, tạo sự ổn định về an ninh, chính trị để phát triển.

Phần thứ hai

PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 5 NĂM 2011-2015

I. DỰ BÁO BỐI CẢNH TÌNH HÌNH TRONG 5 NĂM TỚI

1. Thuận lợi

Dự báo trong giai đoạn tới kinh tế tri thức phát triển mạnh, xu thế hội nhập và mở cửa tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Các ngành, sản phẩm tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường sẽ được quan tâm hơn, đòi hỏi thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế trong nước, trong tỉnh. Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái, kinh tế thế giới bước vào giai đoạn phục hồi, là yếu tố thuận lợi để tỉnh ta tiếp tục thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển. Nhiều cam kết đa phương và song phương theo lộ trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới có hiệu lực, tạo cơ hội để Việt Nam mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Các cơ chế, chính sách của Nhà nước ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi mới cho phát triển.

Những thành tựu đạt được của tỉnh trong giai đoạn 2006 - 2010 là tiền đề quan trọng để tiếp tục phát huy trong giai đoạn 2011- 2015. Kết cấu hạ tầng trên nhiều lĩnh vực: các khu, cụm công nghiệp, giao thông, các khu đô thị, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đang dần được hoàn thiện; một số công trình hạ tầng quan trọng của quốc gia, có tính liên vùng như Quốc lộ 38, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, dự án Quốc lộ 18 mới… mở ra cơ hội trong thu hút đầu tư, nhất là các vùng còn khó khăn phía Nam tỉnh.

2. Khó khăn

Kinh tế thế giới biến đổi nhanh, phức tạp và khó lường. Nguy cơ xảy ra bất ổn chính trị, xung đột quân sự ở một số nước và những vấn đề hậu khủng hoảng có thể ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của các nước, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam. Tình hình kinh tế trong nước, trong tỉnh còn nhiều khó khăn, thách thức do hậu quả nặng nề của suy thoái kinh tế trong những năm qua để lại... Từ năm 2011 trở đi, các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới đến thời hạn thực thi trên nhiều lĩnh vực, tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt đối với các doanh nghiệp trong nước, trong tỉnh.

Tình hình chung của tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn, quy mô nền kinh tế nhỏ, hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, nhất là ở khu vực nông thôn; chất lượng nguồn nhân lực thấp, tình hình thiên tai, dịch bệnh có thể còn diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân; một số vấn đề xã hội chưa được giải quyết triệt để đang là những trở ngại lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh...

II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU KẾ HOẠCH 5 NĂM 2011 - 2015

1. Mục tiêu tổng quát

Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung của cả nước; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tạo nền tảng để đến năm 2020 Hải Dương cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp.

2. Một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015

2.1- Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân 10%/năm trở lên, trong đó:
+ Giá trị tăng thêm Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng bình quân 1,5%/năm trở lên;
+ Giá trị tăng thêm Công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 11%/năm trở lên;
+ Giá trị tăng thêm Dịch vụ tăng bình quân 12,5%/năm trở lên.

2.2- Cơ cấu kinh tế Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản - Công nghiệp, xây dựng - Dịch vụ năm 2015 là 20% - 47% - 33%.

2.3- Cơ cấu lao động: Nông, lâm, thuỷ sản - Công nghiệp, xây dựng - Dịch vụ năm 2015 là 43% - 30% - 27%. 

2.4- GDP bình quân đầu người đạt 34 - 35 triệu đồng (khoảng 1.700 USD) trở lên.

2.5- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 17%/năm trở lên.

2.6- Thu ngân sách nội địa tăng bình quân 15%/năm.

2.7- Tổng vốn đầu tư xã hội trong 5 năm đạt 145 -150 nghìn tỷ đồng.

2.8- Giữ vững mục tiêu 100% trẻ 6 tuổi vào lớp 1, 100% học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào THCS, 98% học sinh tốt nghiệp THCS được vào học THPT, bổ túc THPT.

2.9- Phấn đấu tỷ lệ giường bệnh đạt 25 giường/1vạn dân, tỷ lệ bác sĩ đạt 7,5 bác sĩ/1 vạn dân, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới 16%.

2.10- Tỷ lệ giảm sinh hằng năm 0,18‰, tỷ suất tăng dân số tự nhiên dưới 9,0‰.

2.11- 65% làng, khu dân cư được công nhận làng, khu dân cư văn hoá; 85% cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn cơ quan đơn vị văn hoá.

2.12- Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân hằng năm 2,5%.

2.13- Hằng năm giải quyết tạo việc làm cho 3,2 vạn lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55% trở lên.

2.14- Tỷ lệ số hộ dân được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 95%.

2.15- Phấn đấu xây dựng 20% số xã đạt tiêu chí nông thôn mới.

2.16- Phấn đấu 100% khu, cụm công nghiệp và các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải  sử dụng hệ thống xử lý chất thải đúng quy định.

2.17- Hằng năm có trên 70% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh; tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ đạt 85% trở lên; mỗi năm kết nạp từ 2.500 đảng viên mới trở lên.

2.18- Hằng năm có trên 75%  số cơ quan, chính quyền cơ sở đạt trong sạch, vững mạnh.

2.19- Hằng năm có trên 75% tổ chức cơ sở của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đạt vững mạnh.

III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM

1. Lĩnh vực kinh tế

1.1. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững

Từng bước đổi mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao gắn với đảm bảo môi trường. Chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng (tăng trưởng nhờ vốn và lao động là chủ yếu) sang tăng trưởng theo chiều sâu (tăng trưởng dựa vào nâng cao năng suất và chất lượng); đưa kinh tế tỉnh phát triển theo hướng công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng chủ yếu. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa trên lợi thế cạnh tranh của tỉnh, phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết của Chính phủ đối với Tổ chức Thương mại thế giới, tập trung phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực ở nông thôn với các ngành, nghề đa dạng.

Rà soát, bổ sung hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các huyện, thị xã, thành phố; quy hoạch các ngành, sản phẩm chủ yếu đến năm 2020 làm cơ sở xác định hướng ưu tiên chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn đến năm 2020 và các năm tiếp theo. Trước mắt, tập trung rà soát, đánh giá các dự án phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng đang triển khai, có tác động trực tiếp tới thu hút đầu tư và phát triển (giao thông, điện, thuỷ lợi...). Lập danh mục các dự án ưu tiên đầu tư, tập trung nguồn lực để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng.

Tiếp tục phát triển mạnh các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đổi mới công nghệ, hiện đại hoá sản xuất kinh doanh, chú trọng việc đầu tư đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá, hướng mạnh các chính sách ưu tiên cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ.

1.1.1. Phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung giải quyết vấn đề nông thôn, nông dân

Tiếp tục cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả các nội dung Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Phấn đấu giá trị sản xuất Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giai đoạn 2011 - 2015 tăng bình quân 2,5%/năm. Tăng cường đầu tư và có chính sách phù hợp hỗ trợ đầu tư cho vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, nhất là xây dựng hạ tầng, thuỷ lợi, giống, công nghệ. Đổi mới tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp, hiện đại, thân thiện với môi trường. Quy hoạch các vùng sản xuất chuyên canh (lúa, rau màu, chăn nuôi, thuỷ sản), phát triển trang trại. Xây dựng mô hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Phát triển và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ở nông thôn, nhất là dịch vụ y tế, đào tạo nghề, dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản.

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, lấy sản xuất cây lương thực là chính (ổn định diện tích lúa đến năm 2015 là 60.000 ha), tập trung sản xuất rau màu, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, duy trì hợp lý diện tích trồng cây vải thiều. Giảm dần chăn nuôi phân tán quy mô nhỏ, phát triển nhanh chăn nuôi theo hướng trang trại và ngoài khu dân cư; tận dụng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản và tăng cường thâm canh. Khai thác có hiệu quả các tiềm năng trong nông nghiệp gắn với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Tăng cường hệ thống thú y và bảo vệ thực vật từ tỉnh đến cơ sở, phát hiện kịp thời và thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, sâu bệnh cho cây trồng. Nâng cao chất lượng kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ gia súc, gia cầm; quy hoạch và xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung. Tăng cường ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, bảo quản và chế biến nông sản.

Đổi mới hoạt động các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, khuyến khích phát triển hợp tác xã chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi…, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại; nâng cao năng lực quản lý đối với cán bộ  hợp tác xã.  Hỗ trợ doanh nghiệp, trang trại, hợp tác xã và hộ nông dân được tham gia vào các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Xây dựng và nhân rộng mô hình “Liên kết 4 nhà” trong sản xuất. Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp; nghiên cứu, đổi mới cơ chế hỗ trợ sản xuất cho phù hợp, hiệu quả.

Tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương và phát triển thuỷ lợi, cứng hoá đường trục chính nội đồng, củng cố xây dựng hệ thống đê điều. Hỗ trợ phát triển cơ khí hoá trong nông nghiệp và các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn, đặc biệt chú trọng ngành nghề chế biến nông sản, thực phẩm và tiểu thủ công nghiệp thu hút nhiều lao động. Xây dựng nông thôn theo tiêu chí nông thôn mới. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Có chính sách ưu đãi cán bộ nông nghiệp công tác ở cấp xã.

1.1.2. Phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững; tập trung đầu tư chiều sâu, ưu tiên phát triển công nghiệp sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao và các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, khuyến khích phát  triển công nghiệp nông thôn và làng nghề gắn với bảo vệ     môi trường

Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng giai đoạn 2011 - 2015 tăng bình quân 13,5% trở lên, trong đó công nghiệp tăng 14,5%/năm trở lên. Rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp tập trung trong giai đoạn qua; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp của tỉnh đến năm 2020. Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch và thu hút các nguồn vốn để đầu tư hoàn thiện đồng bộ hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; nâng cao hiệu quả sử dụng và tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp, cụm công nghiệp hiện có. Thực hiện cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư xây dựng chung cư, đảm bảo nhà ở cho công nhân và phát triển các dịch vụ an sinh xã hội ở các khu vực công nghiệp tập trung (nhà văn hoá, khu thể thao, trường học, bệnh viện...).

Rà soát, xây dựng danh mục các sản phẩm, nhóm sản phẩm, ngành công nghiệp ưu tiên thu hút đầu tư. Tập trung phát triển và thu hút đầu tư vào các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao và các sản phẩm để xuất khẩu, chuyển dần từ gia công lắp ráp sang chế tạo; trong đó chú trọng một số ngành công nghiệp chủ lực: cơ khí, điện, điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng công nghệ cao, ưu tiên phát triển gạch không nung, chế biến nông sản thực phẩm. Phát triển công nghiệp với nhiều quy mô, trình độ khác nhau, phù hợp với định hướng chung và lợi thế của từng vùng, từng địa phương trong tỉnh. Nghiên cứu cơ chế và chính sách hợp lý thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ, khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề, hoàn thiện vùng nguyên liệu và thu hút đầu tư cho công nghiệp chế biến nông sản. Triển khai có hiệu quả nguồn kinh phí khuyến công.

Duy trì hoạt động và đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ để phát huy tối đa công suất của các cơ sở công nghiệp hiện có, tích cực tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ xây dựng để các dự án công nghiệp mới sớm đi vào hoạt động. Tập trung phát triển một số sản phẩm chủ yếu: lắp ráp ô tô, máy bơm nước, thép và kết cấu thép, nhôm thanh, nhôm hình, dây cáp điện, các thiết bị điện tử, xi măng, vật liệu xây dựng không nung; tiếp tục phát triển các sản phẩm từ nông sản: rau, củ, quả, thịt lợn xuất khẩu, bánh kẹo, bia, nước giải khát...

1.1.3. Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ; đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân

Phấn đấu giá trị sản xuất các ngành dịch vụ giai đoạn 2011 - 2015 tăng bình quân 14%/năm. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích thu hút đầu tư phát triển các ngành dịch vụ, nhất là đầu tư xây dựng hạ tầng: chợ, khu, điểm du lịch, bến xe, bến cảng, ngân hàng, siêu thị, khách sạn cao cấp, khu du lịch vui chơi giải trí… Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại; hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong tỉnh nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển các loại hình dịch vụ mới và mở rộng thị trường dịch vụ ra tỉnh ngoài, nước ngoài. Nâng cao chất lượng xã hội hoá các hoạt động dịch vụ, nhất là trong lĩnh vực du lịch, y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao.

Chú trọng khai thác thị trường tiêu thụ nội địa, mở rộng thị trường nông thôn; tăng cường công tác quản lý thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ, nhãn mác, xuất sứ và chất lượng hàng hoá. Duy trì và giữ vững các thị trường xuất khẩu truyền thống; tích cực thâm nhập các thị lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản và các thị trường mới có nhiều tiềm năng như Châu Phi và Trung Đông…; triển khai chương trình nâng cao chất lượng rau quả, thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế được phổ cập, tiến tới xây dựng những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh thực phẩm; đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thông qua hoạt động du lịch, hội chợ. 

Triển khai quy hoạch tổng thể và chi tiết về phát triển du lịch, đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho phát triển du lịch, trong đó chú ý các khu du lịch trọng điểm (Côn Sơn - Kiếp Bạc, khu sinh thái Bến Tắm...). Phát triển đa dạng các loại hình và sản phẩm du lịch mang nét đặc thù riêng của tỉnh như du lịch văn hóa lịch sử, lễ hội, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tâm linh, làng nghề truyền thống (thêu ren, giày dép, gốm sứ, thủ công mỹ nghệ...). Đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch và mở rộng thị trường trong và ngoài nước; gắn hoạt động du lịch của tỉnh với các tour du lịch của vùng và cả nước.

Tiếp tục đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ vận tải, bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... và các loại dịch vụ mới theo hướng xã hội hoá, tăng cường liên kết và khuyến khích các tổ chức, thành phần kinh tế tham gia. Hoàn thiện quy hoạch và từng bước xây dựng hệ thống bến xe, bãi đỗ xe, điểm đỗ taxi tại các đô thị; mở rộng mạng lưới ô tô buýt, khai thác tốt hơn tiềm năng vận tải thuỷ nội địa, cải tạo, nâng cấp theo hướng hiện đại. Chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính, đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, an toàn và phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm; khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ mới (tư vấn tài chính, chứng khoán, bất động sản, kiểm toán...).

1.2. Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng các nguồn lực cho đầu tư phát triển; đầu tư có trọng điểm, ưu tiên đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nông nghiệp, nông thôn và các lĩnh vực có khả năng tạo giá trị kinh tế cao

 Nâng cao chất lượng vận động, xúc tiến đầu tư. Xây dựng và định hướng danh mục các dự án ưu tiên thu hút đầu tư giai đoạn 2011 - 2015. Đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá tiềm năng và cơ hội đầu tư tại Hải Dương thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách ưu đãi đầu tư hiện hành của Nhà nước. Rà soát, nghiên cứu, ban hành và thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư của tỉnh phù hợp với tình hình thực tế. Tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh. Thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi để hỗ trợ các doanh nghiệp có dự án sử dụng công nghệ tiên tiến. Đa dạng các hình thức đầu tư nhằm khai thác vốn từ quỹ đất, các nguồn vốn của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, khắc phục triệt để tình trạng bố trí đầu tư dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả. Nâng cao chất lượng thẩm định các dự án, chú trọng vấn đề môi trường và công nghệ của các dự án. 

Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh. Thường xuyên rà soát, bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung kịp thời các văn bản liên quan đến hoạt động đầu tư thuộc thẩm quyền ban hành của tỉnh không còn phù hợp. Tăng cường phân cấp trong quản lý đầu tư, gắn liền với nâng cao năng lực, trách nhiệm của cán bộ các cấp.

Điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý trên các lĩnh vực, đảm bảo đồng bộ và hiệu quả; chú ý tập trung đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, xây dựng hạ tầng giao thông, công nghiệp, dịch vụ, du lịch, cơ sở vật chất thiết yếu cho giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, quan tâm đầu tư cho xã nghèo, vùng khó khăn...

1.3. Tập trung đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đảm bảo đồng bộ, đáp ứng chiến lược phát triển lâu dài đi đôi với tăng cường công tác quản lý và triển khai thực hiện quy hoạch

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể, quy hoạch vùng và các quy hoạch chuyên ngành cho phù hợp với yêu cầu phát triển mới (nông nghiệp, giao thông, công nghiệp, dịch vụ, du lịch, văn hoá, giáo dục...), đi đôi với tăng cường quản lý và triển khai thực hiện nghiêm các quy hoạch đã được phê duyệt.

Tập trung lập quy hoạch và phát triển một số dự án trọng điểm đặc biệt quan trọng của tỉnh như: quy hoạch thành phố Hải Dương theo hướng phát triển đô thị loại I, các khu vực khai thác du lịch văn hóa, vui chơi giải trí trên địa bàn thị xã Chí Linh, huyện Kinh Môn; quy hoạch khu liên hợp văn hoá thể thao tỉnh; quy hoạch phát triển các khu vực tập trung cao về công nghiệp (như huyện Kinh Môn, Kim Thành, Cẩm Giàng...); quy hoạch phát triển các khu vực thuận lợi tiếp cận các tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Nội Bài - Hạ Long, đường vành đai 5 của Thủ đô Hà Nội...

Tiếp tục lập và điều chỉnh quy hoạch cho các thị trấn trên địa bàn tỉnh phù hợp với xu thế phát triển mới. Hoàn thành quy hoạch xây dựng nông thôn mới cho tất cả các xã trên địa bàn tỉnh theo tiêu chí quy định của Chính phủ; chú ý quy hoạch tổng thể kết hợp với quy hoạch chi tiết các khu trung tâm xã, điểm dân cư, làng nghề, chợ, nghĩa trang, công viên, công trình văn hóa, thể thao công cộng... Lập quy chế quản lý kiến trúc quy hoạch cho các khu vực đô thị, các khu đặc thù. 

Nghiên cứu, ban hành các văn bản quy định về quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị làm cơ sở để quản lý, vận hành hệ thống một cách đồng bộ, hiệu quả, đồng thời phân cấp quản lý phù hợp với các quy định của Luật quy hoạch. Hạn chế tối đa việc phát triển các khu dân cư, đô thị, thương mại, công nghiệp… không theo định hướng và không phù hợp về quy hoạch và cảnh quan môi trường. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về quy hoạch và xây dựng, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ mới trong quản lý quy hoạch và kỹ thuật hạ tầng đô thị, nông thôn; nâng cao năng lực quản lý, vận hành của các cơ quan quản lý các công trình hạ tầng kỹ thuật chuyên ngành.

2. Lĩnh vực  văn hoá - xã hội

2.1. Đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với giải quyết việc làm và thực hiện chính sách xã hội

Tiếp tục mở rộng quy mô, đổi mới quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Củng cố phổ cập giáo dục mẫu giáo 5 tuổi, phổ cập tiểu học và trung học cơ sở; đẩy mạnh giáo dục bậc trung học, phấn đấu đến năm 2015 có 50% số huyện trở lên đạt phổ cập giáo dục bậc trung học. Tiếp tục đẩy mạnh kiên cố hoá trường lớp, trang thiết bị phục vụ dạy và học theo hướng hiện đại, quan tâm xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên. Phát triển hợp lý các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Xây dựng môi trường giáo dục đào tạo lành mạnh, chú trọng giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa và kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên; xử lý nghiêm các tiêu cực trong thi cử. Đa dạng hoá các loại hình giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng hoạt động các trung tâm giáo dục cộng đồng xã, phường, thị trấn; tăng cường hoạt động khuyến học, khuyến tài...

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng đào tạo, dạy nghề của các trường, cơ sở dạy nghề đáp ứng yêu cầu cung cấp nhân lực cho các đơn vị và xuất khẩu lao động, gắn với công tác hướng nghiệp, xúc tiến, cung cấp thông tin cung cầu lao động, hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là ở nông thôn và các đối tượng là người nghèo, vùng khó khăn. Thực hiện phương châm nhà nước và doanh nghiệp cùng tham gia đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đầu tư dạy nghề, tăng cường liên kết giữa các cơ sở đào tạo nghề với các doanh nghiệp sử dụng lao động. Triển khai hiệu quả các đề án hỗ trợ vay vốn giải quyết việc làm. Quản lý chặt chẽ và đẩy mạnh dịch vụ xuất khẩu lao động.

Thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo gia đình chính sách và người có công; triển khai hiệu quả các chương trình hỗ trợ xoá đói giảm nghèo, các chương trình vay vốn hỗ trợ giảm nghèo; đảm bảo tốt việc cấp thẻ bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh cho người nghèo; miễn giảm các khoản đóng góp, hỗ trợ cho học sinh là trẻ mồ côi, tàn tật, trẻ em con hộ nghèo. Đảm bảo mức sống tối thiểu cho các đối tượng bảo trợ xã hội hàng tháng tại cộng đồng. Đẩy mạnh và thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” và các hoạt động nhân đạo, từ thiện.

2.2. Phát triển đồng bộ văn hóa, thể thao, thông tin truyền thông

Xây dựng kế hoạch bảo tồn, khai thác và phát huy tốt các giá trị văn hoá dân tộc phục vụ công tác giáo dục truyền thống xây dựng con người Hải Dương gắn với khai thác phát triển du lịch. Tập trung chống xuống cấp, tu bổ, khôi phục các hạng mục công trình tại các khu di tích trọng điểm; phục dựng các lễ hội tiêu biểu, bảo tồn các loại hình nghệ thuật (ca trù, hát chèo, rối nước, hát văn…). Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, trọng tâm là xây dựng gia đình văn hoá, làng, khu dân cư, cơ quan, đơn vị văn hoá; đẩy mạnh phong trào xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Tổ chức xây dựng kế hoạch thực hiện các mục tiêu của chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2010-2015. Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế văn hoá cần thiết phục vụ nhu cầu của nhân dân, nhất là nhà văn hoá, thư viện, các hoạt động thông tin cổ động, chú ý đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động văn học nghệ thuật, nghệ thuật chuyên nghiệp và văn nghệ quần chúng.

Nâng cao chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng phù hợp với từng đối tượng, lứa tuổi cả về bề rộng và chiều sâu; đầu tư nâng cao thành tích các môn thể thao mũi nhọn, truyền thống; tập trung xây dựng, nâng cấp, khai thác hiệu quả các công trình luyện tập, thi đấu thể dục thể thao. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá xây dựng cơ sở vật chất và phát triển văn hoá, thể dục thể thao.

Rà soát, bổ sung quy hoạch và đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cấp hạ tầng của hệ thống thông tin và truyền thông (trạm phát sóng, hệ thống cáp quang, mạng WAN, hệ thống báo chí, phát thanh, truyền hình, in ấn, xuất bản, phát hành, bưu chính, viễn thông, internet, thông tin điện tử, công nghệ thông tin...) Nâng cao chất lượng hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình và các dịch vụ bưu chính, viễn thông. Tăng cường công tác quản lý in ấn, xuất bản, phát hành và hoạt động internet, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Kết hợp chặt chẽ việc triển khai kế hoạch phát triển công nghệ thông tin, truyền thông với việc thực hiện chương trình cải cách hành chính, từng bước hình thành mô hình “Chính phủ điện tử” trên địa bàn tỉnh.

2.3. Phát triển và nâng cao hiệu quả chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình

Quy hoạch phát triển mạng lưới y tế theo hướng đồng bộ, thành lập các bệnh viện chuyên khoa, đẩy mạnh xã hội hoá công tác y tế, phấn đấu 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế vào năm 2015. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, công nghệ, nhân lực và nâng cao chất lượng y tế dự phòng, chủ động phòng ngừa, khống chế các loại dịch bệnh trên địa bàn; nâng cao chất lượng khám chữa bệnh các tuyến, trước hết là bệnh viện tuyến tỉnh. Thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu y tế quốc gia. Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, đảm bảo quyền lợi cho người có thẻ bảo hiểm y tế, tránh phiền hà cho người bệnh và giảm tải các bệnh viện tuyến trên. Thực hiện cơ chế và giải pháp phù hợp để xây dựng nguồn nhân lực y tế (đặc biệt là đội ngũ bác sĩ) đủ số lượng, nâng cao chất lượng và coi trọng việc giáo dục y đức, tinh thần phục vụ nhân dân. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hành nghề y, dược tư nhân, sản xuất kinh doanh, kiểm nghiệm và cung ứng thuốc chữa bệnh, kiểm tra và quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm.

Đổi mới phương thức và phát triển mạng lưới truyền thông về sức khoẻ, dân số - kế hoạch hoá gia đình. Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về dân số; hạn chế mức sinh, giảm tỉ lệ sinh con thứ 3 và mất cân bằng giới tính khi sinh.

3. Lĩnh vực tài nguyên - môi trường và khoa học - công nghệ

3.1. Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên

Tăng cường đầu tư cho công tác điều tra cơ bản, xác định trữ lượng các nguồn tài nguyên. Thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên đất, nước, rừng và khoáng sản. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất đai, hoàn thành xây dựng hồ sơ địa chính ở 3 cấp (tỉnh, huyện, xã). Xem xét thận trọng việc chuyển mục đích sử dụng đất, hạn chế đến mức thấp nhất việc chuyển đổi đất trồng lúa hai vụ sang mục đích khác và không cấp đất cho các dự án ngoài khu, cụm công nghiệp đã quy hoạch; cân đối quỹ đất hợp lý để phát triển đồng bộ các kết cấu hạ tầng, đặc biệt chú trọng tới hạ tầng văn hoá xã hội, phúc lợi công cộng. Hoàn thành xây dựng các tài liệu cơ bản về tài nguyên nước, thực hiện tốt công tác chăm sóc và bảo vệ rừng, hình thành khu bảo tồn tự nhiên của tỉnh.

Xây dựng phương án khai thác hợp lý và hiệu quả các nguồn tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh. Khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, nhất là các khoáng sản làm nguyên liệu xi măng, công nghiệp gốm sứ, thực hiện tốt công tác hoàn nguyên sau khai thác. Ban hành các quy định cụ thể về khai thác, chế biến, sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản. Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên; xử lý nghiêm các đơn vị, cá nhân sai phạm.

3.2. Tăng cường công tác bảo vệ môi trường

Tập trung thể chế và tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường, tổ chức thực hiện nghiêm Luật bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và phân công, phân cấp cụ thể, hợp lý giữa các ngành, các cấp trong việc tham gia và phối hợp bảo vệ môi trường. Thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trong tất cả các khâu: chấp thuận đầu tư, lựa chọn công nghệ,  xây dựng, thẩm định và tổ chức thực hiện cam kết bảo vệ môi trường. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy thuộc thẩm quyền của tỉnh về bảo vệ, xử lý ô nhiễm môi trường. Tăng cường quản lý các loại chất thải, khí thải, nhất là các chất thải nguy hại; kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý môi trường từ tỉnh đến cơ sở; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan chuyên môn về quản lý môi trường.

Đẩy mạnh quy hoạch và quản lý môi trường khu vực đô thị, nông thôn và các khu vực sản xuất trên địa bàn tỉnh. Tăng cường xã hội hoá, mở rộng mô hình tư nhân hoá, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tập trung chỉ đạo các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân xây dựng các hệ thống xử lý chất thải đảm bảo tiêu chuẩn trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các cơ sở sản xuất ngoài khu, cụm công nghiệp, khu vực đô thị, nông thôn, bệnh viện, làng nghề... Đặc biệt, cần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống xử lý rác thải, nước thải ở thành phố Hải Dương; giành quỹ đất hợp lý cho xây dựng các bãi chôn lấp chất thải rắn ở nông thôn, xây dựng trang trại chăn nuôi tập trung; xử lý nước thải, rác thải công nghiệp nguy hại và y tế. Tiếp tục di chuyển một số cơ sở sản xuất công nghiệp ra ngoài nội thành thành phố Hải Dương. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong bảo vệ môi trường; khuyến khích các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp lựa chọn và ứng dụng công nghệ mới, ít ô nhiễm môi trường. Thành lập quỹ bảo vệ môi trường tỉnh và hằng năm dành tỷ lệ kinh phí phù hợp phục vụ công tác bảo vệ môi trường, trong đó tập trung giải quyết, xử lý các điểm ô nhiễm môi trường bức xúc.

3.3. Đẩy mạnh hoạt động khoa học - công nghệ

Tiếp tục tổ chức kiện toàn bộ máy và đổi mới hoạt động khoa học và công nghệ. Tăng dần tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ; đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ; khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh tham gia nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ.  Coi trọng các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có giá trị ứng dụng thực tiễn; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao phù hợp với điều kiện của địa phương, ưu tiên cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ môi trường, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Quan tâm đúng mức đến khoa học xã hội và nhân văn. Thu hút, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, từng bước xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học công nghệ đủ mạnh, có khả năng hội nhập, hợp tác, liên kết với các đối tác ngoài tỉnh và quốc tế.

4. Công tác quốc phòng, an ninh, thanh tra, tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, cải cách tư pháp

Tạo thế chủ động về chiến lược trong phòng ngừa và đấu tranh, kiên quyết làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và các loại tội phạm. Giải quyết cơ bản tình hình an ninh nông thôn, không để phát sinh thành “điểm nóng”. Nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, điều tra xử lý tội phạm, tỷ lệ phá án đạt 75% trở lên, trong đó trọng án khám phá đạt 90% trở lên, giải quyết có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, kiềm chế tai nạn giao thông và làm giảm số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên địa bàn.

Tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh ngày càng vững chắc. Chăm lo xây dựng và củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân; tiếp tục nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, phấn đấu giải quyết trên 90% số vụ việc, hạn chế tình trạng tái khiếu nại ngay từ cơ sở, chủ động xử lý có hiệu quả các trường hợp khiếu kiện đông người, phức tạp; giải quyết dứt điểm các vụ khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài; đảm bảo phát huy dân chủ đi liền với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm túc kết luận, kiến nghị thanh tra và quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo, thu hồi đạt 70 - 80% số tiền, tài sản có điều kiện thi hành; xử lý nghiêm các tổ chức và cán bộ, đảng viên vi phạm.

Đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tư pháp, đáp ứng yêu cầu về tăng thẩm quyền xét xử của toà án cấp huyện. Triển khai mô hình cơ quan Toà án, Viện kiểm sát khu vực. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh phí phục vụ các mặt công tác an ninh, quốc phòng, thanh tra, tiếp dân, giải quyết đơn thư, cải cách tư pháp.

5. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân

5.1. Đẩy mạnh công tác chính trị tư tưởng, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

Coi trọng việc dự báo, nghiên cứu đánh giá những vấn đề liên quan đến tình hình tư tưởng và công tác chính trị tư tưởng để có những giải đáp trúng và kịp thời nhằm tạo sự đồng thuận cao về nhận thức và hành động trong thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của địa phương.

Triển khai sâu rộng nhiệm vụ xây dựng đạo đức, lối sống, bản lĩnh chính trị vững vàng đối với các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Tiếp tục chỉ đạo đưa Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trở thành nền nếp thường xuyên trong sinh hoạt Đảng, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, tạo sự chuyển biến thực sự trong việc “làm theo” tấm gương đạo đức của Bác.

Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, sắc bén, sức thuyết phục cao của công tác chính trị tư tưởng; củng cố đội ngũ, nâng cao chất lượng hoạt động của công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng, nắm bắt và định hướng dư luận xã hội. Đổi mới việc triển khai học tập nghị quyết của Đảng theo hướng thiết thực, phù hợp với từng loại đối tượng, coi trọng xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và kiểm tra thực hiện nghị quyết ở các cấp. Nghiên cứu, triển khai tổ chức các hội nghị cung cấp thông tin lý luận mới cho các bộ chủ chốt thuộc diện Tỉnh ủy quản lý. Tăng cường giáo dục đạo đức công dân, đặc biệt là trong các trường học, trong thanh niên. Thực hiện nghiêm túc công tác giáo dục lý luận cho các đối tượng theo quy định, tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo gắn lý luận với thực tiễn. Tăng cường công tác định hướng tư tưởng chính trị và quản lý Nhà nước về báo chí xuất bản. Chủ động đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, báo chí.

5.2.  Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường vai trò, năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Tiếp tục rà soát kiện toàn các mô hình tổ chức đảng phù hợp với thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới, tập trung xây dựng tổ chức đảng trong nông thôn, trong các loại hình doanh nghiệp; sơ kết một số mô hình đã làm điểm để xác định phương hướng chỉ đạo tiếp theo; quán triệt, hướng dẫn các loại hình tổ chức cơ sở đảng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình. Quan tâm xây dựng củng cố sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ cấp uỷ, chính quyền.

Tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; chú trọng giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong gương mẫu trong công tác và lối sống. Tổ chức thực hiện tốt việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên, tăng cường công tác quản lý đảng viên ở cả nơi công tác và nơi cư trú. Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, kết nạp đảng viên; chú trọng phát hiện, tạo nguồn, bồi dưỡng và xét kết nạp những quần chúng ưu tú trong các đối tượng là thanh niên nông thôn, công nhân, trí thức, phụ nữ, dân tộc, tôn giáo, lực lượng vũ trang; đồng thời kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá về tư tưởng chính trị, đạo đức, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước.

5.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới công tác cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

Thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp. Sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước theo hướng tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ; tách quản lý hành chính với hoạt động sự nghiệp, từng bước đổi mới công tác quản lý các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Đẩy mạnh thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với tất cả các cơ quan hành chính nhà nước. Thực hiện chuyển một số đơn vị sự nghiệp công lập ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí thường xuyên sang hoạt động cung ứng dịch vụ tự bảo đảm kinh phí hoạt động. Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của Liên đoàn Lao động cấp tỉnh, huyện cho phù hợp với thực tiễn.

Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình về công tác cán bộ, đảm bảo quán triệt và thực hiện tốt quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ; đề cao vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, phát huy dân chủ trong công tác cán bộ. Tiếp tục đổi mới, thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ, nhất là công tác đánh giá cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, quan tâm đến cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Đẩy mạnh việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ theo các chức danh, trong đó cần tăng cường cho cán bộ cơ sở. Thực hiện tốt công tác bố trí sử dụng, luân chuyển cán bộ. Chủ động lựa chọn những cán bộ trẻ, cán bộ nữ có đủ điều kiện và triển vọng phát triển để quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm vào vị trí phù hợp; thực hiện có hiệu quả chính sách tiến cử, thu hút, ưu đãi và trọng dụng nhân tài. Tăng cường luân chuyển cán bộ giữa các khối (Đảng, chính quyền, đoàn thể), luân chuyển cán bộ về cấp huyện và cơ sở để đào tạo bồi dưỡng về kinh nghiệm và kỹ năng công tác. Nâng cao tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ vào cơ quan quản lý nhà nước, nhất là cấp tỉnh; có cơ chế thu hút sinh viên mới tốt nghiệp về công tác ở xã, phường, thị trấn để tạo nguồn cán bộ cho cấp trên. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra và giám sát cán bộ; đề cao trách nhiệm quản lý cán bộ từ chi bộ, trong từng cơ quan, đơn vị; thực hiện tốt các hình thức giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức, nhất là tại cộng đồng dân cư. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, quan tâm chế độ đối với đội ngũ cán bộ cơ sở.

5.4. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng

Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Phát huy vai trò trách nhiệm của cấp uỷ các cấp trong lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ, phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm; chỉ đạo, thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo, thực hiện công tác cán bộ...

Phát huy vai trò chủ động của uỷ ban kiểm tra, các ban xây dựng Đảng và văn phòng cấp uỷ trong công tác tham mưu giúp cấp uỷ lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; tăng cường công tác phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra với các ban xây dựng đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, các cơ quan trong khối nội chính trong thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Xác định rõ vai trò, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của từng thành viên cấp uỷ, ý thức trách nhiệm tự kiểm tra của đảng viên, phát huy vai trò giám sát của quần chúng đối với tổ chức đảng và đảng viên. Xử lý và thi hành kỷ luật nghiêm túc, đúng nguyên tắc, thủ tục, quy trình đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm.

5.5. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng

Xây dựng đồng bộ và thực hiện nghiêm các quy chế làm việc, chương trình công tác toàn khoá và hằng năm của các cấp uỷ. Đổi mới việc ra nghị quyết, đảm bảo sát thực, hiệu quả, phát huy được vai trò phản biện, trí tuệ của tập thể cấp uỷ, các cơ quan tham mưu, các nhà khoa học, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Tăng cường chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước cụ thể hoá nghị quyết của các cấp uỷ Đảng để triển khai thực hiện. Cải tiến phong cách và lề lối làm việc, phát huy rộng rãi dân chủ trong Đảng, trong xã hội, đồng thời đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện, nhân rộng các điển hình và ngăn chặn, chấn chỉnh kịp thời những biểu hiện lệch lạc, sai phạm. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ cấp uỷ, chính quyền đối với công tác dân vận, sâu sát tình hình cơ sở, xây dựng mối quan hệ mật thiết và quan tâm chỉ đạo giải quyết những yêu cầu chính đáng của các tầng lớp nhân dân.

5.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, đẩy mạnh cải cách hành chính

Tích cực đổi mới và nâng cao chất lượng các kỳ họp Hội đồng nhân dân, hoạt động chất vấn, tiếp xúc cử tri, tăng cường hoạt động giám sát. Đẩy mạnh công tác phối hợp hoạt động giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Hoàn thiện cơ chế và tạo mọi điều kiện phát huy tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội của các đoàn thể nhân dân vào việc xây dựng chính quyền các cấp, hoạch định và quyết định các chính sách tại địa phương.  

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của Uỷ ban nhân dân đúng với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất ở địa phương. Rà soát, bổ sung quy chế làm việc, phân công trách nhiệm cụ thể cho các thành viên Uỷ ban nhân dân; nêu cao vai trò, trách nhiệm của chủ tịch Uỷ ban nhân dân trong thực thi nhiệm vụ và quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của tập thể Uỷ ban nhân dân. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân trong việc tham mưu và thực hiện chức năng quản lý đối với lĩnh vực được giao phụ trách. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng và ban hành văn bản, nhất là văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, phân cấp quản lý nhà nước và cải cách tài chính công. Mở rộng thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” thuộc các lĩnh vực ở các sở, ngành, ủy ban nhân dân cấp huyện theo tinh thần Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg và Đề án 30 của Chính phủ. Ứng dụng rộng rãi, hiệu quả công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính, giảm tối đa thủ tục giấy tờ và thời gian đi lại của các tổ chức và công dân. Tăng cường phân cấp quản lý cho chính quyền các cấp, đảm bảo thực hiện tốt chức năng quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn.

5.7. Tăng cường công tác dân vận, phát huy dân chủ, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân

Thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác dân vận của Đảng, thường xuyên phối hợp giữa các lực lượng làm công tác dân vận; gắn công tác dân vận với công tác tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế xã hội, xoá đói, giảm nghèo, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ xã, phường, thị trấn. Tăng cường nắm chắc tình hình nhân dân, kịp thời tham mưu với cấp uỷ những chủ trương, giải pháp xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị tại địa phương. Quan tâm củng cố kiện toàn Ban dân vận các cấp, khối dân vận cấp cơ sở, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác vận động quần chúng, đổi mới tác phong công tác theo phương châm trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân. 

Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ có liên quan đến công tác vận động quần chúng nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ hơn trong nhận thức về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới. Thường xuyên củng cố, xây dựng tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, tập trung cho cơ sở. Đổi mới hình thức sinh hoạt và tập hợp đoàn viên, hội viên, nhất là ở khu vực nông thôn, các khu công nghiệp; chăm lo quyền lợi chính đáng, hợp pháp của hội viên, đoàn viên. Thực hiện hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và từng đoàn thể nhân dân phát động, gắn với tổ chức các hoạt động phù hợp với đặc thù của từng đoàn thể và các thành viên Mặt trận Tổ quốc; tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, nhất là các ngành thuộc khối quản lý nhà nước. Chú trọng công tác hướng dẫn, kiểm tra sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng, phát hiện và nhân rộng các mô hình, điển hình trong công tác vận động quần chúng.

5.8. Thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền đi đôi với đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nêu cao tinh thần gương mẫu của từng tổ chức đảng, đảng viên; tăng cường vai trò của chi bộ trong quản lý, giám sát đảng viên. Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng từ tỉnh đến cơ sở theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả. Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm theo các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các văn bản hướng dẫn thi hành. Xây dựng, thể chế hoá quy định trách nhiệm, quyền hạn của các cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, xã hội. Đề cao vai trò, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng và quần chúng nhân dân trong giám sát, phát hiện, đưa tin, kiến nghị xử lý hành vi tham nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp, các ngành; điều tra và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc phức tạp mà dư luận và xã hội quan tâm.

*
*            *


Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thử thách, nhiệm vụ đặt ra cho nhiệm kỳ 2011 - 2015 là rất to lớn, nặng nề nhưng cũng hết sức vẻ vang. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tỉnh Hải Dương quyết tâm phát huy truyền thống và thành tựu đã đạt được trong những năm qua, đoàn kết nhất trí, nêu cao tinh thần trách nhiệm, vượt qua khó khăn thử thách, tranh thủ thời cơ thuận lợi, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra, xây dựng tỉnh Hải Dương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH

--------------------------------------
(1) Trong đó giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng bình quân 2,6%/năm, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 11,5%/năm, dịch vụ tăng 11,6%/năm.

(2) Tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2010 (theo giá thực tế) ước đạt 29.240 tỷ đồng, trong đó khu vực nông, lâm, thuỷ sản đạt 7.023 tỷ đồng, công nghiệp - xây dựng đạt 13.017 tỷ đồng, dịch vụ đạt 9.200 tỷ đồng.

(3) Như: áp dụng quy trình VIETGAP vào trồng rau quả an toàn, chất lượng cao, trồng rau trong nhà lưới, sản xuất hoa công nghệ cao...

(4) So với KH 5 năm, đến nay tổng đàn bò đạt 90,0%, đàn lợn đạt 63,6%, đàn gia cầm đạt 63,3%, sản lượng thịt hơi các loại đạt 82,4%, chất lượng giống nuôi ngày càng được nâng cao

(5) Đến năm 2010 diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt 10.050 ha, vượt 0,5% mục tiêu, sản lượng cá nuôi đạt 52.670 tấn, vượt 17% mục tiêu.

(6) Năm 2005, tỷ lệ làm đất bằng máy đạt 67,8%, vận chuyển bằng máy 72%, đến năm 2010 các tỷ lệ tương ứng là 85% và 80%, đạt mục tiêu đề ra; tỷ lệ tuốt lúa bằng máy đạt gần 100%.

(7) Đến nay toàn tỉnh có 01 trung tâm thương mại, 7 siêu thị, 176 chợ; một số chợ đầu mối nông sản cấp tỉnh đang tiếp tục được triển khai xây dựng theo quy hoạch…

 (8) Đến năm 2010 có 110 khách sạn (tăng 37 khách sạn) với 2.550 phòng nghỉ, tăng 1.010 phòng so với năm 2006.

(9) Đến năm 2010 toàn tỉnh có 9.704 phương tiện vận tải các loại, tốc độ tăng bình quân đạt 20,3%/năm; đã đưa vào khai thác 15 tuyến xe buýt, nâng tổng số tuyến xe buýt đang khai thác lên 16 tuyến từ thành phố Hải Dương đến các huyện và các tỉnh lân cận; mở mới 22 tuyến xe khách cố định đến các tỉnh.

(10) Giai đoạn 2006 - 2010 có thêm 16 chi nhánh ngân hàng thương mại, 5 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở được thành lập mới đi vào hoạt động (Tổng số hiện nay có 20 Ngân hàng thương mại, 01 Ngân hàng CSXH, 01 Ngân hàng Phát triển, 72 quỹ TDND với trên 200 điểm giao dịch, 133 máy ATM)

(11) Giảm từ 3,43% năm 2006 xuống còn 1,87% năm 2010.

(12) 319 km đường, 37 cầu, tuyến đường sắt Lim - Phả Lại, một số tuyến đường từ thành phố Hải Dương đi các huyện phía Nam tỉnh

(13) Đền thờ nhà giáo Chu Văn An, chùa Thanh Mai, đền Cao An Phụ, khu vực Côn Sơn - Kiếp Bạc, đền thờ Khúc Thừa Dụ...

(14) Nhà máy nhiệt điện, Kenmark, Sumidenso, Uniden, Brother... 

(15) Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 03 trường đại học, 08 trường cao đẳng, 06 trường trung học chuyên nghiệp.

(16) Tỷ lệ học sinh khá, giỏi bậc tiểu học 81,1% (MT 70%), bậc THCS 55,5% (MT 45%), bậc THPT 45% (MT 20%)

(17)  Tỷ lệ phòng học kiên cố bình quân các cấp học đạt 81,3% (MT 95%)

(18) Toàn tỉnh có 2 chi cục, 51 đơn vị sự nghiệp và 263 trạm y tế xã, phường, thị trấn; y tế ngoài công lập có 1.333 cơ sở hành nghề y và dược tư nhân, tăng 767 cơ sở so với năm 2005.

(19)  Qua giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, đã phát hiện và kiến nghị giảm quyết toán 887,722 triệu đồng; thu hồi nộp ngân sách nhà nước 2,2 tỷ đồng và thu hồi 9.508,2m2 đất các loại; khôi phục quyền lợi cho 12 người và kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính 162 người; chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 3 vụ.

(20)  Đã kiểm sát đã khởi tố 4.195 vụ việc, kiểm sát việc bắt giam 2.842 người; làm tốt công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc về dân sự, hành chính; chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát thực thi pháp luật được nâng lên; ngành tòa án đã giải quyết, xét xử 11.831 vụ việc, đạt 97,5%, chất lượng xét xử được đảm bảo.

(21)  Số tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch, vững mạnh hằng năm lần lượt là: năm 2006 là 78,4 %, năm 2007: 80 %, năm 2008: 69,0 %; năm 2009: 72,7%

(22) Số chi, đảng bộ cơ sở yếu kém giảm từ 1,9 % năm 2006 còn 0,66%  năm 2009.

(23) Trong nhiệm kỳ, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 3.668 lượt cấp uỷ, tổ chức đảng và 11.822 đảng viên; giám sát theo chuyên đề 477 tổ chức đảng và 3.626 đảng viên, trong đó Tỉnh uỷ kiểm tra 52 tổ chức, giám sát 30 tổ chức đảng.

(24) UBKT các cấp đã kiểm tra 252 tổ chức đảng cấp dưới và 1.063 đảng viên có dấu hiệu vi phạm; kết luận 160 tổ chức đảng và 780 đảng viên có vi phạm (đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức và 321 đảng viên); kiểm tra 4.153 lượt tổ chức đảng cấp dưới về việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; kiểm tra 840 tổ chức đảng cấp dưới về việc thi hành kỷ luật trong Đảng; kiểm tra thu chi ngân sách đảng đối với 25 tổ chức, kiểm tra 6.221 lượt tổ chức và 124.240 lượt đảng viên về thu nộp, quản lý và sử dụng đảng phí; tiến hành giám sát 1.006 lượt tổ chức đảng và 3.970 đảng viên; đã giải quyết và giúp cấp uỷ giải quyết thư  tố cáo đối với 15 tổ chức đảng và 218 đảng viên; kết luận 8 tổ chức đảng và 115 đảng viên vi phạm, trong đó  thi hành kỷ luật 2 tổ chức và 64 đảng viên; 34 đơn khiếu nại kỷ luật của đảng viên, quyết định chuẩn y hình thức kỷ luật 30 trường hợp, giảm hình thức kỷ luật 4 trường hợp

(25) Cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 815 đảng viên bằng các hình thức: khai trừ 138, cách chức 79, cảnh cáo 315, khiển trách 283 đảng viên; thi hành kỷ luật 16 tổ chức đảng bằng các hình thức: cảnh cáo 4, khiển trách 12.

(26) Năm 2006 có 68,4% số chính quyền cơ sở đạt trong sạch, vững mạnh, đến năm 2009 tăng lên 71,8%; không còn chính quyền cấp xã yếu kém.

(27)  Toàn tỉnh đã thực hiện kê khai tài sản  đối với 9.660 cán bộ thuộc diện phải kê khai theo quy định.

(28) Trong 5 năm, đã kiểm tra 189 doanh nghiệp, xử lý thu hồi 54 dự án thuê đất sử dụng kém hiệu quả với diện tích 145,78 ha. Rà soát xe ô tô, xe máy công, nhà và đất của các cơ quan, đơn vị để điều chuyển và xử lý hiệu quả. Tập trung chỉ đạo việc tiết kiệm điện trong sản xuất và sinh hoạt.

(0) Bình luận
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV