Đình Khuê Chiền là một di tích có giá trị không chỉ về quy mô, kiến trúc nghệ thuật, hệ thống di vật, cổ vật mà còn về nhân vật được thờ trong di tích.
Đình Khuê Chiền thờ võ tướng Đào Huy Lực
Tọa lạc trên một khu đất cao ráo, thoáng rộng ngay đầu khu, đình Khuê Chiền, phường Tân Hưng (TP Hải Dương) là một di tích có giá trị không chỉ về quy mô, kiến trúc nghệ thuật, hệ thống di vật, cổ vật mà còn về nhân vật được thờ trong di tích.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, lịch sử vùng đất và địa danh Khuê Chiền đã có sự thay đổi. Đầu thế kỷ XIX, Khuê Chiền là một thôn của xã Khuê Liễu, tổng Thạch Khôi, huyện Gia Lộc, phủ Ninh Giang, trấn Hải Dương. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xã Khuê Liễu chuyển thành thôn và sáp nhập với một số thôn khác thành lập xã mới, lấy tên là Hồng Liễu. Tháng 4.1946, để thuận lợi cho việc quản lý, 4 thôn Cương Xá, Bảo Thái, Bảo Tháp, Phúc Duyên của xã Đông Liễu thuộc huyện Tứ Kỳ được cắt về huyện Gia Lộc và đổi tên xã Đông Liễu thành xã Phúc Liễu. Tháng 7.1947, xã Hồng Liễu và Phúc Liễu hợp nhất, lấy tên là xã Tân Hưng. Từ tháng 7.2008, theo yêu cầu phát triển và mở rộng thành phố, xã Tân Hưng chuyển từ huyện Gia Lộc về TP Hải Dương. Năm 2019, xã Tân Hưng trở thành phường Tân Hưng.
Tân Hưng là vùng đất cổ, tại địa phương có khá nhiều di tích lịch sử, văn hóa gồm 6 ngôi đình, 3 ngôi đền, 7 ngôi chùa, 5 ngôi miếu, 3 nghè, 2 quán và 4 nhà thờ họ. Trong hệ thống di tích lịch sử, văn hóa của phường, ngoài đình Liễu Tràng được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia, còn 4 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, trong đó có đình Khuê Chiền. Đình thờ võ tướng Đào Huy Lực, có công giúp Tản Viên Sơn Thánh đánh giặc, được sắc phong Thượng đẳng thần.
Theo Thần tích, thần sắc hiện lưu giữ tại Viện Thông tin khoa học xã hội Hà Nội, vào thời Hùng Duệ Vương, ở đạo Sơn Nam có gia đình họ Đào, chồng là Đào Huy Phẩm, vợ là Hoàng Thị Mưu, gia cảnh nghèo khó, lấy nghề chặt củi làm kế sinh nhai. Ông bà ăn ở lương thiện, tu nhân tích đức, được mọi người trong vùng nể phục. Giờ Thìn, ngày rằm tháng 2 năm Kỷ Sửu, bà sinh một cậu con trai khôi ngô tuấn tú, đặt tên là Đào Huy Lực. Lớn lên, Lực công có tài văn võ, sức khỏe vô song.
Bấy giờ, giặc Ai Lao đem quân sang xâm lược nước ta. Nhà vua vô cùng lo lắng, hạ chiếu tìm người tài giỏi ra giúp nước. Vào thời gian này, vua Duệ Vương nhường ngôi cho con rể là Tản Viên Sơn Thánh và để Tản Viên Sơn Thánh phát động, chỉnh sức tinh binh vạn mã, chia làm 5 ngả, hội ở cửa bể, quân thuỷ, bộ cùng tiến đánh giặc.
Hưởng ứng lời hiệu triệu của nhà vua, Lực công nguyện đem sức mình phò vua giúp nước. Khi đem quân đến đất Dương Tuyền, Hạ Hồng phủ, Gia Phúc huyện, Liễu Thị khu (sau đổi là Khuê Liễu khu) thấy mảnh đất sơn thuỷ hữu tình, long hổ quanh quất bao bọc, ông truyền cho binh sĩ thiết lập đồn sở và lấy ở bản trang 25 người cường tráng làm gia thần, sau đó cùng binh sĩ tiến quân ra cửa bể, đại phá một trận, bắt được nghìn quân giặc, thu nhiều khí giới, xe ngựa.
Quân giặc được dẹp yên, đất nước trở lại thanh bình, Tản Viên Sơn Thánh lập tức làm thư tấu dâng vua. Vua ban chiếu cho Đào Huy Lực về kinh mở tiệc ăn mừng, gia phong là Quan tướng quân, nhận thực ấp ở Liễu Thị khu, phủ Hạ Hồng. Một thời gian sau, ông mất tại đây. Vua vô cùng thương tiếc, liền truyền lệnh sai đình thần đến hành lễ và cho phép bản trang xây đền, miếu tôn thờ, khen phong mỹ tự: “Càn hải đại lượng linh lực cư sĩ uy linh hiển hựu Đại vương”.
Theo văn bia, từ năm Cảnh Hưng 46 (1785) ngôi đình Khuê Chiền đã rất khang trang, năm Minh Mệnh 10 (1829), di tích tiếp tục được tu bổ, tôn tạo. Phía trước đình có 1 dãy dải vũ ba gian và hai gian nhà khách. Năm 1958, hai gian nhà khách bị thực dân Pháp đốt. Năm 1962, ba gian dải vũ bị tháo dỡ để lấy vật liệu xây dựng các công trình phúc lợi của địa phương. Hiện nay, di tích có kiến trúc kiểu tiền nhất, hậu đinh gồm 5 gian đại bái, 3 gian trung đình và 1 gian hậu cung, chất liệu gỗ tứ thiết còn chắc chắn.
Toà đại bái dài 13,55 m, rộng 7,1 m, xây tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp nổi đề án lưỡng long chầu nhật, gối đỡ mặt nhật là mặt hổ phù, miệng ngậm chữ thọ, hai tay dang rộng đang cố vươn mình lên cao, hoạ tiết điêu khắc tỉ mỉ, sinh động. Hai đầu nhà gắn lạc long đuôi cuộn tròn vắt trên hồi đấu. Kết cấu khung vì chịu lực kiểu kẻ chuyền, chồng rường và kèo cầu trụ báng. Phía trước của mỗi vì kèo là các đầu bẩy hiên, bẩy hiên luồn qua cột quân, đỡ xà nách. Tại các đầu bảy chạm khắc theo đề tài lá hóa long, lá lật...
Tòa trung đình dài 7,55 m, rộng 3,2 m, kết cấu vì kiểu kèo cầu với kỹ thuật bào trơn đóng bén. Tòa hậu cung dài 2,95 m, rộng 1,5 m, vì kèo kiểu thuận chữ công, mái lợp ngói mũi. Tại đây, bài trí tượng thờ Đào Huy Lực. Tượng chất liệu gỗ, niên đại thời Nguyễn (thế kỷ XIX), tạc kiểu chân dung thể khối ở tư thế ngồi trên bệ vuông giật cấp.
Mặc dù trải qua nhiều đợt trùng tu, tôn tạo ở những giai đoạn sau này, song di tích đình Khuê Chiền vẫn giữ được vẻ đẹp của một ngôi đình cổ và là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn trên mảnh đất xứ Đông.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hằng năm tại di tích có nhiều kỳ lễ hội nhưng quan trọng nhất là lễ hội tháng giêng, diễn ra từ ngày 11-21, gọi là lễ đình đám. Ngày 13 chính hội, tổ chức rước tượng thần từ đình ra miếu. Ngày 14, tế an vị. Ngày 15, rước chạ. Từ xa xưa, 3 làng Khuê Liễu, Liễu Tràng và Khuê Chiền đã kết chạ với nhau, do đó vào ngày 15 nhân dân 3 làng cùng tổ chức rước long đình từ đình của làng mình đến quán Sếu hợp tế, chiều rước trở về và tiếp tục tổ chức lễ hội đến ngày 21 thì tế giã đám, đóng cửa đình. Hiện nay, lễ hội rút ngắn lại còn hai ngày, phần lễ chỉ tổ chức tế tại đình, không tổ chức rước, phần hội có các trò chơi dân gian đánh cờ người, bắt vịt, kéo co... thu hút đông đảo người dân tham gia.
Tại di tích còn lưu giữ nhiều di vật, cổ vật có giá trị như bia ký, câu đối, đại tự, long đình… đặc biệt là 8 đạo sắc phong của các triều đại: Cảnh Hưng 44 (1783), Quang Trung 5 (1792), Cảnh Thịnh 4 (1796), Minh Mệnh 2 (1821), Thiệu Trị 4 (1844), Tự Đức 3 (1850) và Khải Định 9 (1924).
Đình Khuê Chiền không chỉ là nơi thờ thành hoàng mà trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ còn là trụ sở làm việc của UBND xã và trường dạy học. Ngày nay, đình là nơi sinh hoạt tín ngưỡng lành mạnh của nhân dân địa phương.
ĐẶNG THU THƠM