Chuyến thăm của Tổng thống Ukhnaagiin Khurelsukh tới Việt Nam là dấu mốc quan trọng, mở ra trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam-Mông Cổ nhân dịp hai nước kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ.
Nhân dịp Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagiin Khurelsukh thăm Việt Nam từ ngày 1-5/11 trước thềm kỷ niệm 70 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước, phóng viên đã có cuộc phỏng vấn ông Doãn Khánh Tâm, Đại sứ Việt Nam tại Mông Cổ, về quan hệ hai nước cũng như ý nghĩa chuyến thăm của Tổng thống Ukhnaagiin Khurelsukh.
Khái quát về mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, đang phát triển tích cực giữa Việt Nam và Mông Cổ, Đại sứ Doãn Khánh Tâm cho biết ngày 17/11/1954, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ (nay là nước Mông Cổ) đã chính thức đặt quan hệ ngoại giao.
Chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Mông Cổ lần đầu tiên vào tháng 7/1955 và chuyến thăm của Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Yumjaagiin Tsedenbal tới Việt Nam vào tháng 9/1959 đã đặt nền móng cho mối quan hệ hữu nghị truyền thống hết sức tốt đẹp giữa nhân dân hai nước.
Trong biến động chung của tình hình thế giới, sau khi chuyển đổi chế độ xã hội từ chủ nghĩa xã hội sang dân chủ tư bản và chuyển đổi nền kinh tế thị trường đầu những năm 1990, Mông Cổ vẫn coi trọng quan hệ hữu nghị truyền thống với Việt Nam, coi Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Tổng thống Mông Cổ Punsalmaagiin Ochirbat đã thăm chính thức Việt Nam vào tháng 3/1994. Hai bên ra Tuyên bố chung, nêu những nguyên tắc cơ bản cho quan hệ hai nước phù hợp với tình hình mới.
Đặc biệt, trong chuyến thăm chính thức Mông Cổ tháng 4/2000 của Chủ tịch nước Trần Đức Lương, hai bên đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác lần thứ 3, đưa quan hệ hai nước lên một tầng nấc mới.
Tiếp đó là chuyến thăm của Tổng thống Mông Cổ Natsagiin Bagabandi tới Việt Nam vào tháng 1/2005. Tháng 12/2012, hai bên đã trao công hàm chính thức công nhận lẫn nhau về quy chế kinh tế thị trường đầy đủ.
Gần đây nhất, Tổng thống Mông Cổ Tsakhiagiin Elbegdorj thăm chính thức Việt Nam vào tháng 11/2013; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã thăm chính thức Mông Cổ nhân dịp tham dự Hội nghị Cấp cao Á-Âu lần thứ 11 (ASEM-11) vào tháng 7/2016; Chủ tịch Quốc hội Mông Cổ Miyegombyn Enkhbold thăm Việt Nam vào tháng 1/2018.
Việc duy trì các chuyến thăm và tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao hai nước đã góp phần quan trọng vào việc củng cố và tăng cường sự tin cậy chính trị và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước.
Tại cuộc gặp giữa Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng với Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagiin Khurelsukh bên lề Lễ đăng quang của Nhà vua Anh vào tháng 5 năm nay tại London và cuộc gặp giữa Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với Thủ tướng Mông Cổ Luvsannamsrain Oyun-Erdene bên lề Diễn đàn Davos mùa hè vào tháng 6 tại Thiên Tân, Trung Quốc, lãnh đạo hai nước đã khẳng định coi trọng và mong muốn tiếp tục tăng cường và củng cố quan hệ song phương giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực, vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam và Mông Cổ hoàn toàn có thể tự hào về mối quan hệ truyền thống giữa hai nước đã và đang được xây đắp trên cơ sở hiểu biết và tin cậy, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau.
Mối quan hệ đặc biệt đó đã được thử thách qua từng giai đoạn của lịch sử. Nhân dân Việt Nam luôn ghi nhớ tình cảm chân thành, sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu mà Nhà nước và nhân dân Mông Cổ dành cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Nhà nước và nhân dân Việt Nam với khả năng của mình, giúp đỡ nhân dân Mông Cổ khi gặp khó khăn do thiên tai hoặc trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.
Sự ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau đó cùng với truyền thống quan hệ lâu đời, sự quan tâm của lãnh đạo hai nhà nước, nguồn tài nguyên phong phú, năng lực sản xuất ngày càng cao đã, đang và sẽ là cơ sở vững chắc, là đòn bẩy cho sự phát triển hợp tác giữa hai nước trên mọi lĩnh vực kinh tế-thương mại, khoa học-công nghệ, giáo dục, văn hóa, thể thao và du lịch…, đáp ứng mong đợi của nhân dân Việt Nam-Mông Cổ.
Theo Đại sứ Doãn Khánh Tâm, quan hệ giữa các tỉnh, thành, địa phương hai nước cũng khá mật thiết.
Tới nay, đã có một số cặp quan hệ kết nghĩa như: thủ đô Hà Nội với thủ đô Ulaanbaatar; TP Hồ Chí Minh với thủ đô Ulaanbaatar; quận Hoàn Kiếm và quận Bayanzurkh; tỉnh Hòa Bình và tỉnh Tuv; tỉnh Đắk Lắk với tỉnh Orkhon; quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức) với quận Chingeltei; hiện tại, Đại sứ quán Việt Nam tại Mông Cổ đang thúc đẩy thiết lập quan hệ kết nghĩa giữa tỉnh Phú Thọ và tỉnh Darkhan-Uul.
Nói về ý nghĩa chuyến thăm Việt Nam lần này của Tổng Thống Ukhnaagiin Khurelsukh, Đại sứ Doãn Khánh Tâm khẳng định chuyến thăm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trong khuôn khổ hợp tác song phương mà còn mở ra khả năng phát triển rộng lớn trong khu vực và quốc tế.
Chuyến thăm chính thức của Tổng thống Ukhnaagiin Khurelsukh tới Việt Nam lần này là dấu mốc quan trọng, mở ra trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam-Mông Cổ nhân dịp hai nước kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 2024.
Đây là chuyến thăm cấp Nhà nước lần thứ 4 của một Tổng thống Mông Cổ tới Việt Nam sau 10 năm kể từ chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mông Cổ Tsakhiagiin Elbegdorj vào tháng 11/2013.
Những thỏa thuận cấp cao về phương hướng hợp tác giữa hai nước trong chuyến thăm lần này sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho hai nước tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực mà hai nước có thế mạnh như nông nghiệp, khai khoáng, du lịch..., và đóng góp thiết thực vào việc làm cân bằng cán cân thương mại vốn đang lệch 95% sang phía Việt Nam.
Theo Đại sứ Doãn Khánh Tâm, Mông Cổ là đất nước rất rộng lớn với thế mạnh là trữ lượng khoáng sản phong phú và số lượng gia súc chăn thả dồi dào.
Việt Nam nên tăng cường mở rộng hợp tác giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực khai thác mỏ, khai thác các kim loại đất hiếm và nguyên tố thiết yếu, những nguyên liệu quan trọng trong sản xuất xe điện, phát triển xanh, chống biến đổi khí hậu và giảm thiểu ô nhiễm không khí; nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi gia súc của Mông Cổ...
Trong khi đó, thế mạnh của Việt Nam là có thị trường hơn 100 triệu dân với dân số trẻ đang trong thời kỳ dân số vàng và tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh chóng.
Chính phủ hai bên cần thúc đẩy, hỗ trợ và kết nối các doanh nghiệp của hai nước trong mọi lĩnh vực có tiềm năng, thế mạnh bổ sung lẫn nhau.
Các doanh nghiệp Mông Cổ sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng như thị trường rộng lớn trên thế giới vì Việt Nam là đối tác đã ký hơn 17 hiệp định thương mại tự do, trong đó có Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA).
Quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Mông Cổ trong những năm gần đây có những bước phát triển tích cực.
Kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Mông Cổ đã tăng gấp đôi, từ 41,4 triệu USD trong năm 2017 lên hơn 85 triệu USD năm 2022 và 8 tháng đầu năm 2023 đã đạt khoảng 75 triệu USD.
Tóm lại, hai nước có rất nhiều tiềm năng và lợi thế để thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, du lịch, giáo dục-đào tạo, khoa học, công nghệ thông tin, chuyển đổi số, kinh tế số, năng lượng, thăm dò khai thác và chế biến dầu khí cũng như tham gia các dự án thuộc lĩnh vực năng lượng, tái tạo điện gió, điện mặt trời.
Đại sứ Doãn Khánh Tâm bày tỏ tin tưởng chắc chắn rằng quan hệ Việt Nam-Mông Cổ với bề dày 70 năm lịch sử sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển với nhiều thành quả tốt đẹp.
Theo TTXVN