Bệnh đốm vằn hay khô vằn, mặc dù dễ nhận diện và có thuốc đặc trị, tuynhiên nếu không phát hiện và phòng trị kịp thời hay phòng trị khôngđúng cách, năng suất có thể giảm đáng kể.
1. Tầm quan trọng Bệnh đốm vằn hay khô vằn, có nơi còngọi là bệnh ung thư là bệnh thường gặp và quan trọng thứ hai trên lúasau bệnh cháy lá. Mặc dù bệnh dễ nhận diện và có thuốc đặc trị, tuynhiên nếu không phát hiện và phòng trị kịp thời hay phòng trị khôngđúng cách, năng suất có thể giảm đáng kể. Khác với bệnh cháy lá (đạo ôn) gâyhại trong điều kiện khí hậu nóng, lạnh xen kẽ, trời âm u, nhiều sươngmù, nên thường xuất hiện và gây hại trong vụ đông – xuân. Bệnh đốm vằnưa thời tiết nóng: 28 – 32 độ C, ẩm cao 96 – 100%, ít ánh sáng nên bệnhthường thấy xuất hiện trong vụ hè thu, vụ mùa. 2. Tác nhân gây hại Bệnh đốm vằn do nấm sống trong đất:Rhizoctonia solani, ngoài lúa nấm còn gây hại trên rau cải, đậu, bắp,bầu bí, dưa, cà rốt, ớt… mầm bệnh lây lan qua nước tưới, đất mang mầmbệnh và tàn dư thực vật của cây trồng bị bệnh vụ trước. Trên lúa, nếu dùng giống ngắn ngày,năng suất cao, ruộng sạ, cấy dầy, thiếu ánh sáng, bón thừa đạm, bón đạmmuộn, bón không cân đối N-P-K, ẩm độ trên ruộng quá cao, ruộng vụ trướctrồng bị bệnh đốm vằn, không dọn sạch rơm rạ, lúa chét, cỏ dại… bệnhđốm vằn dễ xảy ra trong vụ tiếp theo. Khác với bệnh cháy lá, có thể xảy raở tất cả các giai đoạn sinh trưởng và gây hại trên tất cả các bộ phậncủa lúa như lá, cổ lá, cổ bông, hạt, mặt khác vết bệnh dễ thấy nhờ đódễ phòng trị kịp thời. Bệnh đốm vằn, trái lại, thường xảy ra vào giaiđoạn lúa đẻ nhánh tối đa – làm đòng, trổ (khoảng 35 – 70 NSS), bệnh âmthầm tiến triển nơi bẹ lá tiếp giáp mực nước, do đó nếu đi thăm đồng màkhông chịu khó lội xuống ruộng quan sát thì sẽ không phát hiện đượcbệnh, đến khi bệnh phát triển lên lá đòng (trổ nóc) mới phòng trị thìđã quá muộn. Triệu chứng bệnh đốm vằn dễ nhândiện, lúc đầu bệnh xuất hiện ở bẹ lá giáp mực nước, vết bệnh có dạngđốm loang lổ như da beo, màu xanh xám, viền nâu, sũng nước, dần dần đốmbệnh ăn sâu vào bẹ lá làm bẹ lá vàng, khô chết dần, đồng thời bệnh cònăn lan lên trên, một khi bệnh lan lên tới lá đòng (trổ nóc) thì năngsuất có thể giảm tới 50%, hạt không đẹp, lúa bị lép, lửng, khi xay dễbể. Nếu quan sát kỹ trên vết bệnh già, tasẽ thấy có những hạch nấm nhỏ màu nâu xám, cứng. Đây chính là nhữnghạch khuẩn, các hạch khuẩn này sau đó sẽ rụng, rơi xuống nước lây lanqua bụi lúa bên cạnh hoặc nằm dưới đất, trong rơm rạ chờ vụ sau sẽ tiếptục gây hại. Bệnh đốm vằn thường xảy ra thành từngchòm trên ruộng nhất là những nơi lúa mọc quá dày, quá tốt (ở giữaruộng hay ở gần cống bộng dẫn nước), do đó khi thăm đồng, bà con cầnlưu ý các nơi này trước tiên. 3. Phòng, trị Để phòng, trị bệnh đốm vằn cần áp dụng biện pháp tổng hợp như: Dọn sạch rơm rạ, lúa chét, cỏ dại, tàn dư thực vật sau khi thu hoạch. Không sạ, cấy quá dày, bón cân đốiN-P-K, không bón thừa đạm, bón đạm muộn, nên tăng cường bón K vừa tăngtính chống chịu bệnh vừa hạn chế đổ ngã. Không để ruộng quá ẩm, nước ngập quá sâu. Thường xuyên thăm đồng, nhất là giaiđoạn đòng - trổ, cần lội xuống ruộng để quan sát, chú ý nơi lúa mọc quádày là nơi bệnh dễ xảy ra, cần vạch lúa và quan sát nơi gốc xem có bệnhhay không. Nếu có, phải lập tức ngưng bón đạm, ngưng phun phân bón lácó đạm và phải phun thuốc trừ bệnh ngay. Sử dụng một trong các loại thuốc đặc trị sau: Carbenzim 50 WP, Carbenzim 500 FL: liều dùng 1,0 kg (0,5 L)/ha Vanicide 3SL, 5SL: liều dùng 1,5 L (1,0 L)/ha. Saizole 5SC: 1,0 L/ha. Chú ý: Khi phun cần phun kỹ, phun đẫm vào nơi có vết bệnh, cần phun đủ lượng nước khuyến cáo trên nhãn, hiệu quả phòng trị sẽ cao. (Theo Nông nghiệp Việt Nam) |