Trong dự thảo văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng, so với văn kiện Đại hội XI, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có những điểm mới.
Quang cảnh khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ mười hai
Quốc phòng, An ninh, Đối ngoại là những lĩnh vực rất quan trọng luôn được đề cập trong văn kiện các đại hội Đảng. Qua mỗi kỳ đại hội, những nhận định, đánh giá, định hướng chính sách trong các lĩnh vực này có sự bổ sung, phát triển mới. Trong dự thảo văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng, so với văn kiện Đại hội XI, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có những điểm mới.
Lực lượng biên phòng Quảng Trị phối hợp công an, dân quân tự vệ địa phương tuần tra khu vực
biển ở xã Hải An, huyện Hải Lăng
Như vậy, chủ đề Đại hội XI có 4 thành tố là sự lãnh đạo của Đảng; dân tộc, dân chủ; đổi mới; mục tiêu xây dựng đất nước. Chủ đề Đại hội XII có 5 thành tố, thêm thành tố bảo vệ Tổ quốc (bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định). Thành tố "bảo vệ Tổ quốc" bao gồm cả khu vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
II- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Phần quốc phòng, an ninh trong văn kiện Đại hội XI được trình bày là "Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XII: "Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới". Cụm từ "trong tình hình mới" là điểm mới được nhấn mạnh.
Đánh giá tình hình
Dự thảo văn kiện đã nêu: "Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội". Để đạt được những thành tựu quan trọng đó, có ba vấn đề mới được khẳng định.
Thứ nhất, nhận thức về mục tiêu, yêu cầu, quan điểm, phương châm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển.
Điểm nổi bật là mục tiêu và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, giữ vững chủ quyền biển, đảo; ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Quan điểm bảo vệ Tổ quốc đã xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; quan hệ gắn bó giữa mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược; xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước; nắm chắc tình hình, chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố gây bất ổn định, nhất là các nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến, bất lợi.
Thực hiện phương châm chỉ đạo: Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược. Kiên trì giải quyết tranh chấp mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc, phù hợp với lợi ích quốc tế; có đối sách phù hợp với từng đối tượng, từng tình huống. Nhận thức về đối tác, đối tượng ngày càng sáng rõ hơn. Đảng ta xác định, những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Đó là nguyên tắc, là tiêu chí để xác định đối tượng, đối tác của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lực lượng Công an, Biên phòng và Kiểm sát huyện Hà Quảng cùng phối hợp công tác
để đảm bảo tốt an ninh trên tuyến biên giới
Khi xác định đối tượng và đối tác cần hết sức linh hoạt: có trường hợp là đối tượng đấu tranh, nhưng vẫn có những mặt cần tranh thủ, hợp tác và là đối tác trong quan hệ kinh tế; có những đối tác quan hệ sâu rộng về kinh tế nhưng lại có mặt phải cảnh giác và đấu tranh. Đối tượng và đối tác có thể chuyển hóa lẫn nhau, cho nên khi xác định cần khách quan, toàn diện để có đối sách hợp lý.
Thứ hai, thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được củng cố.
Trên cơ sở tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường, trong những năm qua, thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh, thế trận an ninh nhân dân được củng cố thêm vững chắc.
Về quốc phòng, đã triển khai xây dựng hệ thống công trình phòng thủ theo quy hoạch, tập trung cho những địa bàn chiến lược trọng điểm. Chất lượng xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được nâng lên một bước, đủ sức tự giải quyết các tình huống quốc phòng, an ninh ở địa phương. Khả năng phòng thủ quốc gia được nâng lên tạo điều kiện cho việc tiếp tục bổ sung điều chỉnh thế trận, bố trí các lực lượng tác chiến. Tổ chức xây dựng các công trình phòng thủ hợp lý và chặt chẽ.
Việc xây dựng thế trận an ninh nhân dân có bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu theo hướng vững chắc. Các lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đã có bước phát triển mới, được triển khai trên mọi địa bàn, mọi vùng, miền của cả nước.
Việc tổ chức các bộ phận chỉ huy, tác chiến, các lực lượng cơ động đã được triển khai đồng bộ. Chủ động ngăn ngừa và chuẩn bị các phương tiện, phương án đối phó với các tình huống phức tạp có thể xảy ra. Đã xây dựng, triển khai thực hiện các đề án, kế hoạch bảo đảm an ninh, trật tự ở từng địa bàn, trước hết là ở các địa bàn trọng điểm.
Sự gắn kết giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân chặt chẽ, hiệu quả và thiết thực hơn. Đó là những thành công lớn trong việc tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.
Thứ ba, sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được tăng cường.
Coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, nhất là xây dựng bản lĩnh chính trị và lòng trung thành của Quân đội với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân. Tổ chức, biên chế quân đội được điều chỉnh hợp lý hơn.
Đã từng bước bổ sung vũ khí, trang bị cho quân đội ngày càng hiện đại hơn, tăng thêm khả năng tác chiến phòng thủ biển, đảo và thềm lục địa. Các mặt công tác bảo đảm ngày càng có hiệu quả, thiết thực, chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của quân đội, chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu được nâng lên.
Quân đội hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trong mọi tình huống, làm tốt vai trò tham mưu với Đảng và Nhà nước về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Quân đội thực sự là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và trong các hoạt động cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai.
Lực lượng Công an nhân dân được quan tâm xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cơ sở vật chất-kỹ thuật theo yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, thực sự là lực lượng nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. Đã chú trọng nâng cao trình độ, đạo đức, phẩm chất đội ngũ cán bộ công an, tích cực trong công tác tham mưu với Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tổ chức bộ máy công an được củng cố và phát triển phù hợp với tính chất, đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng lực lượng, coi trọng tăng cường lực lượng cho cơ sở, các địa bàn chiến lược và các đơn vị chiến đấu. Trang bị kỹ thuật, nghiệp vụ được đầu tư đổi mới và ngày càng hiện đại, có lĩnh vực đi thẳng vào hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới.
Phương hướng, nhiệm vụ
Dự thảo văn kiện xác định: "Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội".
Những nhiệm vụ chính yếu được nêu bật là:
Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đây là một trong những vấn đề cốt lõi vừa mang tính định hướng cho phát triển, vừa là nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để bảo đảm cho việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Điều này xuất phát từ quan điểm sử dụng sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh và lực lượng bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, của tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Đây cũng là giải pháp thiết thực để giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội cần được thực hiện trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, trên tất cả mọi vùng, miền của Tổ quốc, trong đó chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược.
Thứ hai, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Một nhiệm vụ trực tiếp của quốc phòng, an ninh là kiên quyết đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong và cả những tiêu cực nảy sinh bởi sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế.
Dự thảo văn kiện nhấn mạnh: "Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh".
III- Về hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
Về đánh giá tình hình
Dự thảo văn kiện nhấn mạnh: "Môi trường hòa bình thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố".
Trong những năm qua, chúng ta đã mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia; tạo lập và giữ được môi trường hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế để phát triển; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững.
Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị; tiếp tục từng bước đưa quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định hơn.
Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 11 nước. Nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống chính trị khu vực và thế giới, phát huy vai trò tích cực trong cộng đồng ASEAN. Cùng với việc tăng cường ngoại giao nhà nước, quan hệ đối ngoại đảng và ngoại giao nhân dân được mở rộng, đã góp phần nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
- Triển khai đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã từng bước xử lý tốt mối quan hệ của Việt Nam với các đối tác chính, thể hiện trên một số vấn đề sau:
Đã củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng giềng, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong bối cảnh tình hình trên Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, có lúc rất căng thẳng, chúng ta đã xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, kiên trì, kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích của đất nước; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, kiên trì chủ trương giải quyết những bất đồng bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Những chủ trương và giải pháp của Đảng, Nhà nước ta đã được nhân dân đồng tình và dư luận quốc tế ủng hộ.
Tích cực tham gia và đóng góp cho việc hình thành Cộng đồng ASEAN. Việt Nam đã tạo dựng được hình ảnh hội nhập tích cực trong nhận thức của các thành viên ASEAN cũng như của cộng đồng quốc tế.
Tham gia tích cực và có trách nhiệm vào việc liên kết khu vực ở Đông Á, thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng kinh tế Đông Á. Việt Nam đã từng bước bắt nhịp và chủ động tham gia các tiến trình Đông Á, nhất là tiến trình hướng Đông Á trở thành một cộng đồng mở, có quan hệ hài hòa với tất cả các nước Đông Á.
Tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các định chế đa phương quốc tế như IMF, WB, WTO, Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên, các diễn đàn đa phương như Tổ chức các nước không liên kết, nhóm các nước G77,... để nâng cao vị thế quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam.
- Quá trình hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được nhiều kết quả. Dự thảo văn kiện khẳng định: "Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
Thành công của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài thể hiện ở chỗ đã hình thành các cụm sản xuất và phát triển các ngành sản xuất có trình độ công nghệ tiên tiến. Kết quả là chúng ta đã mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút nguồn lực quốc tế nhằm phục vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hội nhập trên lĩnh vực văn hóa-xã hội của nước ta với cộng đồng thế giới đã được đẩy mạnh, đa dạng về hình thức, phương thức. Việt Nam đã ký hơn 100 thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Hội nhập văn hóa-xã hội đi vào thực chất đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều hơn.
Về phương hướng, nhiệm vụ
Trong phương hướng, nhiệm vụ của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, dự thảo văn kiện nhấn mạnh những vấn đề cốt lõi sau:
Thứ nhất, xác định mục tiêu tối thượng là lợi ích quốc gia-dân tộc .
Trong việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại, lợi ích quốc gia-dân tộc là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Lợi ích quốc gia-dân tộc không đi ngược lại các giá trị chính nghĩa, tiến bộ, nhân văn của nhân loại.
Quan điểm nhất quán nêu trong dự thảo văn kiện là triển khai, thực hiện công tác đối ngoại để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đối ngoại để phục vụ đối nội. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm thúc đẩy các quan hệ kinh tế, tăng cường hợp tác kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế-xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác đối ngoại được đẩy mạnh sẽ tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thiết thực góp phần bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
Để làm tốt công tác đối ngoại, cần coi trọng việc giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa với mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế. Mỗi bước mở rộng, đưa quan hệ hợp tác với các nước vào chiều sâu đều phải nhằm củng cố, tăng cường thực lực trong nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích đất nước.
Thứ hai, về phương châm và định hướng lớn trong công tác đối ngoại.
Dự thảo văn kiện xác định: "thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế".
Trên cơ sở nhận thức về thời đại và tình hình thế giới, khu vực, dự thảo xác định phải đổi mới công tác đối ngoại. Trong khi nhận rõ hợp tác phát triển là xu thế thì đồng thời không mơ hồ chỉ thấy hợp tác một chiều. Hợp tác đồng thời phải đi đôi với đấu tranh, cạnh tranh để bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia; đồng thời đấu tranh, cạnh tranh để hợp tác chứ không dẫn tới đối đầu.
Thứ ba, triển khai mạnh mẽ chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Dự thảo văn kiện đã xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, coi hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực khác từng bước mở rộng; nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng, thực hiện các chuẩn mực chung bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc. Nhận thức sâu sắc hơn yêu cầu giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.
Theo TTXVN