Cuộc không chiến đẫm máu trên bầu trời Triều Tiên

20/05/2017 14:36

Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) đã sản sinh ra những cuộc hỗn chiến gay cấn nhất trong lịch sử xung đột trên không.



Máy bay ném bom B-29  trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)

Hầu hết các cuộc không chiến này diễn ra tại “MiG Alley" (Hành lang MiG) - cái tên do phi công phương Tây đặt cho vùng phía tây bắc Triều Tiên - nơi sông Yalu nhập vào biển Hoàng Hải.

Sự thật bị che giấu


Trong nhiều năm, màn sương mờ ảo của chiến tranh đã phủ lên tất cả các tuyên bố và phản ứng của các bên. Nhưng theo thời gian, các sử gia quân sự đã có thể tiếp cận được tài liệu giải mật từ tất cả các bên liên quan, nhờ thế ngày nay công chúng đã có một bức tranh thực tế hơn về những gì xảy ra trong những cuộc không chiến ác liệt thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên.

Chiến tranh Triều Tiên 1950-1953 là cuộc chiến duy nhất mà hầu hết các trận không chiến đều diễn ra giữa các phi công Liên Xô và Mỹ chứ không phải giữa chính các phi công hai miền Triều Tiên.

Cuộc xung đột cũng đánh dấu những tuyên bố phi lý của quân đội Mỹ. Trong những tài liệu từng được công bố vào thập niên 60, người Mỹ khẳng định tỷ lệ máy bay bị bắn rơi giữa Mỹ và Liên Xô trong trận chiến MiG Alley là 1:14, tức là với mỗi máy bay Mỹ, Anh và Australia bị bắn rơi thì người Nga tổn thất tới 14 chiếc MiG. Trong 2 thập kỷ sau đó, tỷ lệ này dần dần giảm xuống còn 1:10.

Khi người Nga giải mật kho tài liệu lưu trữ sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh và các cựu phi công Xô viết được thoải mái kể lại sự việc thì tuyên bố của không lực Mỹ không còn đứng vững. Trong cuốn sách có tựa “Trận không chiến trên bầu trời tiền tuyến phương Đông và Triều Tiên”, cựu phi công Liên Xô Sergei Kramarenko cho rằng “tỷ lệ tổn thất của không quân hai phía là 1:1”.

Tỷ lệ mới này được các sử gia quân sự phương Tây chấp nhận, nhưng vẫn chưa gần với sự thật. Trên thực tế, cuộc không chiến MiG Alley là một cuộc "tắm máu" với không lực phương Tây. Đó là một câu chuyện đã được giấu bởi nhiều lý do, khi niềm kiêu hãnh và thanh danh đã khiến phương Tây không thể thừa nhận chiến thắng với cách biệt quá lớn của Liên Xô.

Ban đầu nhà lãnh đạo Xô viết Joseph Stalin không có ý định tham chiến tại Triều Tiên. Thế chiến thứ hai vẫn còn là một ký ức quá mới mẻ và Moscow không muốn một cuộc xung đột với phương Tây có thể dẫn đến cuộc đại chiến toàn cầu tiếp theo. Vì thế khi chiến tranh mới bắt đầu, Trung Quốc là lực lượng chính hỗ trợ Triều Tiên. Nhưng khi các nước phương Tây núp dưới danh nghĩa Liên hợp quốc đe dọa kiểm soát toàn bộ bán đảo, mà năng lực của phi công Trung Quốc thì có hạn, Stalin đã quyết định đưa không quân Liên Xô tham chiến.

Nhằm giữ bí mật về sự can dự của Liên Xô, Stalin áp đặt một số hạn chế với các phi công của ông. Điều đầu tiên, họ sẽ bay với logo của không quân Trung Quốc hoặc không quân Triều Tiên. Thứ hai, khi đang trên không, các phi công sẽ chỉ được liên lạc bằng tiếng Trung Quốc hoặc Triều Tiên, cấm sử dụng tiếng Nga. Và cuối cùng, phi công Liên Xô không được phép tiếp cận kinh tuyến 38 (biên giới giữa hai miền Triều Tiên) hoặc đường bờ biển, để tránh bị quân Mỹ bắt giữ.

Hạn chế thứ ba này đồng nghĩa các phi công Liên Xô bị cấm rượt đuổi máy bay địch. Hàng trăm máy bay phương Tây khi đó đã kịp tẩu thoát về phía Hàn Quốc do phi công Liên Xô buộc phải quay đầu khi họ tiến gần đường bờ biển hoặc biên giới. Nhưng bất chấp những hạn chế đó, không quân Liên Xô vẫn thể hiện sự vượt trội. Trong 32 tháng, lực lượng Liên Xô can dự ở Triều Tiên, họ đã bắn rơi 1.250 máy bay đối phương. Trong số này, lực lượng pháo binh phòng không của Liên Xô bắn rơi 153 máy bay còn các phi công tiêu diệt tới 1.097 chiếc. Về phần mình, không quân Xô viết chỉ tổn thất tổng cộng 319 chiếc MiG và Lavochkin La-11.

Ngày thứ ba đen tối

Ngày 23.10.1951 - Ngày thứ ba đen tối, không quân phương Tây triển khai 200 chiếc phản lực gồm các loại F-86 Sabres, F-84, F-80 và Gloster Meteor IV - máy bay phản lực đầu tiên của Anh và trên 20 chiếc máy bay ném bom Superfortress B-29 (loại đã thả hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản). Sứ mệnh của phi đội này là cắt đứt tuyến đường hậu cần cho lực lượng Triều Tiên và Trung Quốc, đồng thời triệt hạ các căn cứ không quân ở Naamsi và Taechon của Triều Tiên.

Để đối phó với mối đe dọa này, Liên Xô đã tổ chức hai sư đoàn không chiến. Sư đoàn 303 gồm 58 chiếc MiG-15 dàn quân theo hình bậc thang, có nhiệm vụ tấn công các nhóm chính của đội máy bay ném bom - chiến đấu hỗn hợp và máy bay ném bom địch. Sư đoàn số 324 gồm 26 chiếc MiG-15 tạo thành đội bay hình bậc thang thứ hai chịu trách nhiệm yểm trợ và bọc hậu cho sư đoàn 303 thoát khỏi trận chiến.



Những chiếc MiG-15 của không quân Liên Xô  vốn được đánh giá không cao
đã bắn hạ rất nhiều máy bay hiện đại của Mỹ


Chiến lược của người Nga là phớt lờ những chiến binh hộ tống và xông thẳng vào “thành trì” của phi đội Superfortresses (máy bay ném bom B-29), vốn bay tốc độ chậm hơn. Trong khi MiG trên đường xung chiến với B-29, thì nhóm này phát hiện một nhóm máy bay Meteor của Anh bay chậm hơn. Một số phi công Liên Xô định “xử” luôn các mục tiêu này, nhưng tư lệnh Nikolai Volkov đã hạ lệnh tập trung cho “nhóm cá lớn”.

Giống như những chú cá voi sát thủ đang xoay vòng rồi hớp lấy con mồi, phi đội MiG xé toạc đội hình B-29 của Mỹ. Một số phi công Liên Xô bắt đầu tấn công máy bay ném bom Mỹ từ bên dưới theo phương thẳng đứng và chứng kiến những chiếc B-29 nổ tung ngay trước mắt. Giống như trò săn gà tây, phi đội máy bay ném bom của liên quân lần lượt bị bắn "rụng" từng chiếc.

Người Nga tuyên bố hạ 10 chiếc B-29 - chiếm tỷ lệ cao nhất máy bay ném bom Mỹ tổn thất trong một chiến dịch, trong khi họ chỉ mất đúng một chiếc MiG. Cựu phi công Kramarenko cho biết một số phi công tuyên bố có tới 20 chiếc B-29 bị bắn rơi trong tuần lễ không chiến ác liệt từ 20-27.10.1951. Ngoài ra, không lực Mỹ còn mất thêm 4 chiếc F-84 hộ tống.

 Sau này, Tư lệnh không quân Liên Xô Lev Shchukin hồi tưởng về Ngày thứ ba đen tối: “Họ định hăm dọa chúng tôi. Có lẽ họ nghĩ chúng tôi sẽ hoảng sợ vì bị áp đảo bởi số lượng và sẽ bỏ chạy, nhưng thay vào đó, chúng tôi đã đối đầu”.

Sau trận MiG Alley, người Nga đã đặt biệt danh cho B-29 là “những chiếc lều bay”, bởi những chú chim sắt khổng lồ này đã trúng đạn và bốc cháy quá dễ dàng. Cựu phi công Mỹ Earl McGill, người thoát chết trong MiG Alley từng thừa nhận: “Tính theo tỷ lệ thì "Ngày thứ ba đen tối" đánh dấu tổn thất lớn nhất của Mỹ trong bất cứ sứ mạng ném bom lớn nào, ở bất cứ cuộc chiến tranh nào mà nước Mỹ can dự”.

Trận không chiến "Ngày thứ ba đen tối" đã mãi mãi thay đổi cách thức mà không lực Mỹ tiến hành một cuộc dội bom đường không chiến lược. B-29 sau đó không còn bay ban ngày qua MiG Alley nữa. Các thị trấn làng mạc của Triều Tiên cũng không còn bị rải thảm bom bởi người Mỹ nữa. Hàng chục ngàn dân thường thoát khỏi lửa đạn. Nhưng quan trọng hơn, sự dũng cảm và kỹ năng của Liên Xô trong sứ mạng can dự vào Triều Tiên có thể đã ngăn chặn một cuộc đại chiến thế giới nữa. “B-29 là máy bay ném bom chiến lược, hay nói cách khác là một tàu chở bom hạt nhân. Trong một cuộc thế chiến thứ ba mà chúng ta đã từng đứng bên bờ vực, những chiếc máy bay này sẽ thực hiện tấn công các thành phố của Liên Xô với bom hạt nhân. Nay thì hóa ra những chiếc phi cơ khổng lồ này trở nên vô dụng trước tiêm kích phản lực Liên Xô vốn kém hơn về trang bị”, ông Kramarenko nói.

THU HẰNG


(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Cuộc không chiến đẫm máu trên bầu trời Triều Tiên