Xử lý ra sao khi chưa có bằng tốt nghiệp cấp 3 nhưng có bằng tiến sĩ?
Với những trường hợp chưa có bằng tốt nghiệp cấp 3 nhưng lại được cấp bằng cử nhân, tiến sĩ sẽ xử lý theo quy định.
Trường hợp ông Vương Tấn Việt (tức Thượng tọa Thích Chân Quang) không có tên trong danh sách cấp bằng tốt nghiệp cấp 3 nhưng được cấp bằng cử nhân và tiến sĩ gây xôn xao dư luận. Vậy, những trường hợp chưa có bằng tốt nghiệp cấp 3 liệu có được cấp bằng cử nhân, tiến sĩ?
Theo quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng ngành giáo dục mầm non, đối tượng và điều kiện tham gia tuyển sinh đại học là người đã được công nhận tốt nghiệp THPT của Việt Nam hoặc có bằng tốt nghiệp của nước ngoài được công nhận trình độ tương đương.
Ngoài ra, những người đã có bằng tốt nghiệp trung cấp ngành nghề thuộc cùng nhóm ngành dự tuyển và đã hoàn thành đủ yêu cầu khối lượng kiến thức văn hóa cấp THPT theo quy định của pháp luật cũng được tham gia dự tuyển.
Như vậy, trường hợp học sinh chưa hoàn thành chương trình học phổ thông, chưa có bằng tốt nghiệp cấp 3 sẽ không đủ điều kiện tham gia xét tuyển vào các trường đại học và cao đẳng.
Với những trường hợp chưa có bằng cấp 3 nhưng lại được cấp bằng cử nhân, tiến sĩ sẽ xử lý theo quy định. Cụ thể, tại khoản 3, điều 20, Thông tư 08/2021/TT-BGDĐT ban hành quy chế đào tạo trình độ đại học quy định: “Người học sử dụng hồ sơ, văn bằng, chứng chỉ giả làm điều kiện trúng tuyển hoặc điều kiện tốt nghiệp sẽ bị buộc thôi học; văn bằng tốt nghiệp nếu đã được cấp sẽ bị thu hồi, hủy bỏ”.
Đối với bằng tiến sĩ, theo khoản 5, điều 21, Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT ban hành quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ quy định: “Nếu nghiên cứu sinh đã được cấp bằng tiến sĩ, việc thu hồi bằng được thực hiện theo quy định hiện hành và trong trường hợp hồ sơ quá trình đào tạo được xác nhận có vi phạm, sai sót nghiêm trọng dẫn đến người được cấp bằng không còn bảo đảm đáp ứng đủ điều kiện dự tuyển, công nhận nghiên cứu sinh và duy trì các điều kiện bảo đảm chất lượng trong quá trình học tập và nghiên cứu tại cơ sở đào tạo”.
Về trách nhiệm thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ, tại điều 25, Thông tư 21/2019/TT-BGDĐT Quy chế quản lý văn bằng và chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân, trách nhiệm này thuộc về cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ.
Cụ thể, bằng tốt nghiệp THPT do giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo cấp; văn bằng giáo dục đại học do giám đốc đại học, hiệu trưởng trường đại học, giám đốc học viện, viện trưởng viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo và cấp văn bằng ở trình độ tương ứng cấp.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ đã sáp nhập, chia, tách, giải thể thì cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ là cơ quan đang quản lý sổ gốc cấp văn bằng, chứng chỉ.
Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo quyết định việc thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ trong các trường hợp khác.