Giao thông - Đô thị

Tản mạn Thành Đông

NGUYỄN THẾ TRƯỜNG 20/06/2024 06:00

Dù có giàu trí tưởng tượng đến đâu cũng không thể mường tượng ra được mảnh đất Thành Đông hơn 200 năm trước chỉ là một vùng bãi hoang ven ngã ba sông Sặt.

hinh-1.-ban-do-thanh-co-hai-duong (1)
Bản đồ Hải Dương năm 1925, trong đó có vẽ bản đồ thành cổ Hải Dương (hình lục giác). Nguồn: Thư viện Quốc gia Pháp

Giữa những ngày tháng có nhiều sự kiện lịch sử, đi trong TP Hải Dương, nơi bạn đã sống nhiều năm rồi mà vẫn cảm thấy như người mới tới khi đứng trước những công trình, con đường, hàng cây, vườn hoa, dãy phố… như mới hiện lên một khối hình mới, khoác lên màu sắc mới, lan tỏa phong vị mới.

Từ dinh Lệ đến dinh Dậu

Theo tư liệu lịch sử thì Hải Dương thừa tuyên ra đời từ thời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (1469). Thời đó, lỵ sở còn đặt ở xã Mặc Động thuộc Chí Linh, còn gọi là dinh Lệ, có thành Vạn. Nhưng được gần hai thế kỷ, đến thời Lê-Trịnh bước sang giai đoạn suy tàn, vua quan tranh giành quyền lợi, nông dân đói khổ không chịu được đã vùng lên, trong đó có cuộc nổi dậy của Nguyễn Cử, Nguyễn Tuyển (thời đó gọi là nổi loạn).

Quân khởi nghĩa đã chiếm cứ nhiều vùng, trong đó có dinh Lệ. Triều đình đã cử nhiều quân cơ, voi, ngựa về “chi viện”, nhưng vẫn không chống được, đành bỏ dinh Lệ, chuyển lỵ sở về đất Mao Điền thuộc huyện Cẩm Giàng bây giờ. Đó là vùng đất trên bờ sông Vân Dậu - một đoạn của sông Sặt, nên gọi là dinh Dậu. Ở đây cũng có đò ngang sang đất Đường An (tức Bình Giang ngày nay). Ở vào thế ấy, người ta cho là nếu có biến thì cầu cứu Thăng Long cũng nhanh mà đường trạm dịch cũng thuận tiện. Từ dinh Dậu có chợ họp mở mang đông đúc, có Văn miếu Mao Điền xây trên một gò đất cao.

Từ thành Vạn đến Thành Đông

36.jpg
Quảng trường Độc Lập thời kỳ thị xã Hải Dương (ảnh tư liệu)

Ngót nửa thế kỷ sau (năm 1786), quân khởi nghĩa Tây Sơn tiến ra Bắc Hà, tiêu diệt tập đoàn phong kiến nhà Trịnh, quan lính ở dinh Dậu cũng bỏ chạy thảm hại.

Đầu thế kỷ 19, sau khi Gia Long chiếm Thăng Long, một danh nhân đất Đường An là Phạm Đình Hổ (tác giả Vũ trung tùy bút) về thăm dinh Dậu. Ông quan sát vị trí, địa hình và phán rằng định đô đặt trấn của một tỉnh mà chỉ lấy cho gần nơi thanh viện, tiện việc chạy trạm, không lo việc công thủ sau này thì sao có thể khống chế được sơn hải, hộ vệ cho chốn băng kỳ được. Năm 1804, sau khi chiếm được Bắc Hà, nhà Nguyễn dời dinh Dậu từ Mao Điền về phía Đông đặt tại ngã ba sông Thái Bình và sông Kẻ Sặt trên địa phận làng Hàn (gọi là trấn Hàn). Tại đây, nhà Nguyễn xây thành khá kiên cố gọi là Thành Đông,

Thành Đông buổi đầu đắp bằng đất, năm Minh Mệnh thứ 5 gia cố bằng đá ong, sau làm thêm thành Dương Mã. Thành có hình lục giác đều, các cạnh tạo thành đường gấp khúc. Ngoài thành có hào nối với sông Thái Bình và sông Sặt. Hào rộng trên ba trượng, sâu hơn nửa trượng (1 trượng=10 thước, 1 thước =0,40m).

Từ đầm lầy đến TP Hải Dương xanh đẹp

dsc_0695a61c3bf8c8aa227e0cc7e5870414df97.jpg
Công viên Bạch Đằng ngày nay trở thành điểm hẹn văn hóa của nhiều thế hệ người dân thành phố

Từ bến Hàn, sông Thái Bình tách ra một nhánh nhỏ, chảy về phía ga tàu hỏa, rồi Hàng Bè (Tam Giang) hội với sông Sặt đổ về Cống Câu. Mấy làng trong khu Ngọc Châu, Nhị Châu bây giờ (trước thuộc huyện Cẩm Giàng) giống như một hòn đảo. Sau khi Pháp xâm lược, nhằm khai thác tài nguyên khoáng sản thuộc địa, giao thương thuận tiện, năm 1898 đã làm đường sắt thông Hà Nội- Hải Phòng.

Quá trình làm cầu Phú Lương và đường sắt cũng là “biến” một đoạn sông lấp thành đường nối với cầu thành đường 5 sau này. Đầu thế kỷ 19, sông Thái Bình chưa có đê nên hằng năm nước dâng mang phù sa sông tràn vào bồi lấp. Đến năm 1923, đoạn sông giữa hai con đường sắt và đường 5 trở thành đầm lầy, chỉ còn một lạch nhỏ ở giữa nối với sông thành phố vào Thành Đông. Năm 1985, để xây dựng công viên, phải đào đất vượt lên. Thế là tạo thành hồ ở giữa, từng bước xây dựng, mở mang thành công viên Bạch Đằng xanh đẹp, thơ mộng như ngày nay.

Ga tàu hỏa Hải Dương có rồi nhưng một thời khách từ thị xã ra ga phải đi một đường vòng từ Quang Trung (nửa phố Đông Thị, Đông Giàng cũ) đến cửa Trường Tiểu học Tô Hiệu (Nam tiểu học cũ) qua An Ninh (đường cống Ba cửa cũ) mới đến được ga. Mãi đến năm 1943-1944, viên công sứ cuối cùng của Pháp ở tỉnh là Mát-xi-mi mới cho làm con đường từ vườn hoa Bảo Đại (Quảng trường Độc lập ngày nay) đến ga, dài 800m. Công trình đang làm thì xảy ra cuộc đảo chính Nhật lật đổ Pháp. Tiếp đến là Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Sau một thời gian thì Pháp chiếm đóng thị xã nên chúng đã biến khu đất làm đường thành nơi máy bay lên xuống gọi là “sân bay dã chiến”. Chiến tranh kết thúc, nhà ga được xây dựng khang trang, đường nối với ga được đầu tư xây dựng thành đường đôi to rộng, có dải phân cách, mang tên người chiến sĩ cách mạng Hồng Quang.

Phía đầu đường Hồng Quang, sân bách hóa tổng hợp bây giờ, trước đây là vườn hoa Bảo Đại (vị vua cuối cùng của triều Nguyễn). Gọi là vườn hoa nhưng chỉ dành cho quan chức, Tây, đầm đến thưởng lãm; con cái dân nghèo vào là bị cảnh sát đuổi. Tại đây, chiều ngày 17/8/1945 đã diễn ra cuộc mít tinh của hàng vạn nhân dân trong và ngoại thành hưởng ứng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Ông Bạch Năng Thi, lãnh đạo Việt Minh đứng trên một điểm cao, dưới bóng lá cờ đỏ sao vàng lớn, dõng dạc đọc 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, tuyên bố xóa bỏ chính quyền tay sai, thành lập chính quyền cách mạng, kêu gọi quần chúng ủng hộ chính quyền cách mạng.

Cũng tại đây, ngày 2/9/1945, hàng vạn người tập trung nghe loa phóng thanh truyền đi lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Mọi người đã giơ cao nắm tay hô to 5 lời thề độc lập: Không đi lính cho Pháp! Không làm việc cho Pháp! Không bán lương thực cho Pháp! Không đưa đường, chỉ lối cho Pháp! Không để Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai!

Từ đó, vườn hoa Bảo Đại đổi tên thành “Vườn hoa Độc Lập”.

Từ sau Cách mạng tháng Tám, thành phố Hải Dương, sau đó là thị xã Hải Dương không ngừng phát triển. Năm 1997, từ thị xã lên thành phố. Năm 2019, Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận TP Hải Dương mở rộng đạt 5 tiêu chí đô thị loại I.

NGUYỄN THẾ TRƯỜNG