Tấm gương trung hiếu, tiết nghĩa của bốn cha con họ Lê làng Mộ Trạch
Dòng họ Lê làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng (Bình Giang, Hải Dương) có bốn cha con Lê Cảnh Tuân đều có công giúp nước dẹp giặc, sáng ngời tấm gương tiết nghĩa, trung hiếu cho thế hệ sau noi theo.
Họ Lê là một trong hai dòng họ lớn của làng Mộ Trạch, đến nơi đây lập nghiệp từ khá sớm. Theo “Lê thị gia phả sự tích ký” (tác giả Nguyễn Văn Nguyên dịch và chú thích), thủy tổ của dòng họ là Lê Hữu Huy, quê ở Lão Lạt, huyện Thuần Lộc, Ái Châu (Thanh Hóa). Con của cụ là Lê Như Du, lấy vợ người làng Mộ Trạch, di dời về quê vợ sinh sống. Cụ Lê Như Du sinh ra Lê Cảnh Tuân, tự là Tử Mưu, đỗ Thái học sinh (tương đương với tiến sĩ) khoa Tân Dậu (năm 1381) triều Trần Phế Đế. Có tài liệu cho rằng Lê Cảnh Tuân đỗ Thái học sinh khoa Canh Thìn (năm 1400) triều Hồ cùng với Nguyễn Trãi.
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, tự lên ngôi vua, lập lên nhà Hồ. Lê Cảnh Tuân và người bạn thân là Bùi Bá Kỳ chống lại nhà Hồ, ủng hộ nhà Trần. Hai ông sang Yên Kinh (Bắc Kinh, Trung Quốc) dâng biểu vua Minh đem quân đánh nhà Hồ, dựng con cháu nhà Trần lên làm vua.
Năm 1406, nhà Minh mượn cớ "phù Trần diệt Hồ", sai Trương Phụ, Mộc Thanh, Hoàng Ngũ Phúc mang quân sang đánh, bắt được cha con Hồ Quý Ly. Kể từ đó nhà Hồ mất, cả nước Việt rơi vào ách thống trị của nhà Minh. Lập được công lớn, Bùi Bá Kỳ được nhà Minh cho làm chức Tham nghị. Biết vua quan nhà Minh không có ý định tái lập nhà Trần, năm 1407, Lê Cảnh Tuân gửi cho Bùi Bá Kỳ vạn ngôn thư (bức thư vạn chữ) khuyên Bùi Bá Kỳ yêu cầu nhà Minh giữ lời hứa. Quân Minh nghi ngờ Bùi Bá Kỳ phản nghịch, khám nhà Bùi Bá Kỳ bắt được “vạn ngôn thư” và truy lùng. Lê Cảnh Tuân phải đổi tên đi trốn.
Năm 1411, quân Minh lập Giao Châu học hiệu tại Đông Thành (Hà Nội). Tuy các con ông ngăn cản nhưng vì nóng lòng cứu nước, ông vẫn kiên quyết lên kinh đô thi vào đây. Nhờ văn chương lưu loát, ông được bổ nhiệm làm giáo thụ một huyện. Sau đó, quân Minh phát hiện ra tung tích của ông, bắt ông cùng với con trai cả là Lê Thái Điên về giam lỏng ở Kim Lăng (Trung Quốc). Minh Tổ hỏi rằng: “Mày khuyên Bá Kỳ âm mưu làm phản. Vì sao vậy?". Ông nói: “Người Nam thì mong nước Nam còn”. Năm 1416, Lê Cảnh Tuân mất trong ngục.
Lê Cảnh Tuân còn là nhà thơ nổi tiếng thời Trần, Hồ. Ông làm thơ để tỏ chí yêu nước, hết lòng vì dân vì nước. Thơ ông hiện còn 12 bài chép trong “Việt âm thi tập” của Lý Tư Tấn và Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn.
Lê Cảnh Tuân hai lần đánh giá thấp âm mưu xâm lược của nhà Minh nhưng hành động yêu nước dũng cảm của ông được Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” xếp ông vào một trong bảy người tiết nghĩa của triều Trần.
Noi gương cha, cả 3 người con trai của Lê Cảnh Tuân đều là người yêu nước, giữ vững đạo lý cương thường, trung hiếu sáng ngời cho đời sau. Người con trai cả là Lê Thái Điên theo cha sang Kim Lăng và sau về sau cùng cha gửi thân nơi xứ người.
Người con thứ hai là Lê Thiếu Dĩnh, tự Tử Kỳ. Lê Thiếu Dĩnh thời trẻ lên kinh du học, được thầy học là viên quan Binh bộ Thượng thư Hoàng Phúc (người Minh) nhận làm con nuôi. Sau nghe tin Lê Lợi dấy nghĩa ở Lam Sơn, ông tham gia nghĩa binh lập được nhiều công trạng.
Sau khi đánh đuổi được đội quân xâm lược nhà Minh ra khỏi đất nước, Lê Thái Tổ muốn chọn người đi sứ sang nhà Minh để nối lại quan hệ giữa hai nước. Lê Thiếu Dĩnh khảng khái xin nhận nhiệm vụ đi sứ.
Sang đến nơi, triều đình nhà Minh vì hận bị thua trận nên lạnh nhạt không tiếp, lại bày mưu nhốt ông trong một ngôi nhà riêng, không cho ăn uống gì. May nhờ có thầy học cũ là Hoàng Phúc tìm cách mang thức ăn đến. Hơn một tháng sau, vua Minh thấy ông vẫn còn sống như thường, cho là chuyện thần kỳ, lúc ấy mới chịu nhận cống vật và tiếp ông theo nghi lễ sứ thần. Quan hệ bang giao giữa triều đình Lê sơ và nhà Minh được khai thông. Đi sứ về, ông được vua ghi nhận công lao và khen ngợi là người trung tiết.
Người con út của Lê Cảnh Tuân là Lê Thúc Hiển cũng là một người có công tham gia vào sự nghiệp đất nước của Lê Thái Tổ. Ông được phong chức tri phủ Trường An, sau thăng Lạng Giang trấn Tuyên phủ sứ.
Thúc Hiển là người rất cương trực, thẳng thắn. Gia phả có chép chuyện ông vâng mệnh đến làm lễ ở miếu Lịch đại Đế vương, thấy có 3 pho tượng vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Đại Hành và Dương Hoàng hậu ngồi cùng hàng với nhau trên ngai thờ, ông bèn làm bài hặc văn cáo trước miếu, ý nói Hoàng hậu nên lui xuống ngồi với người chồng sau của mình (ý chỉ vua Lê Đại Hành) chứ không được ngồi ngang hàng với vua Đinh. Bài văn đọc xong đem đốt, chợt thấy tượng Dương hoàng hậu biến sắc như có vẻ ngượng ngùng.
Vua biết chuyện ấy, khen ngợi ông là người cương trực, dám hặc tấu với cả thần linh để giữ vững đạo lý cương thường. Trong “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên có viết “tục dân lập đền thờ, tô tượng hai vua Tiên Hoàng và Đại Hành và tượng Dương hậu cùng ngồi, hồi quốc sơ (đầu thời Lê) vẫn còn như thế. Sau An Phủ Sứ Lê Thúc Hiển mới bỏ.
Từ đời Lê Thúc Hiển trở đi, con cháu phát triển đông đúc, hình thành nên nhiều ngành thứ của dòng họ, trong đó có nhiều người thành đạt về khoa cử và quan trường như Trạng nguyên Lê Nại, Hoàng giáp Lê Tư, Hoàng giáp Lê Quang Bí, Tiến sĩ Lê Công Triều.
Lê Cảnh Tuân cùng ba người con trai hiện được thờ tại nhà thờ họ Lê làng Mộ Trạch (lấy tên là Trung hiếu đường) cùng với các vị tổ tiên. Nhà thờ được khởi dựng từ khá lâu đời. Trải qua hai cuộc kháng chiến, nhà thờ bị phá hủy hoàn toàn. Khoảng những năm 90 thế kỷ trước, nhà thờ được xây dựng lại trên nền đất trưởng họ. Những năm gần đây, nhà thờ được tu sửa lại.
Hiện nay, nhà thờ họ Lê còn lưu giữ được tấm bia cổ “Tô Quận công thần đạo bi minh” kể sự tích họ Lê và tiểu sử của Lê Quang Bí (Tô Quận công, cháu 5 đời của Lê Cảnh Tuân) do bảng nhãn Đỗ Uông soạn năm 1579. Vào ngày giỗ họ 20 tháng giêng âm lịch, con cháu trong họ tập trung tại nhà thờ họ để tỏ lòng tri ân, thành kính các vị tiên tổ có công với quê hương, đất nước.