Tiếng của người đàn bà câm
Người làng vẫn nhắc về bà câm nhưng không ai biết rõ bà là ai, ở đâu đến. Chỉ có con Cải đã nghe thấy tiếng của bà.
Bà Liếng sống một mình trong cái chòi nơi cuối dốc. Nơi đó vắng ngắt, cánh đồng bỏ hoang cỏ mọc lên tới tận bờ, mấy con bò cũng chẳng buồn gặm những đám cỏ cằn khô. Bà Liếng câm nên người làng quen gọi là bà câm, quên mất cái tên Liếng từ bao giờ. Chỗ bà câm ở, đến tiếng gà gáy nghe cũng xao xác, buồn thiu. Tụi trẻ con làng bên mỗi khi có việc đi qua đoạn dốc này thường im thin thít, co giò chạy thật nhanh vì sợ “ma cây” nhảy ra. Vào mùa gặt, họa hoằn lắm mới có con chim cu ghé qua gừ gừ vài tiếng gọi bạn rồi lại đập cánh bay tít sang cánh đồng làng bên.
Cái chòi của bà câm nhỏ xíu nhưng sân trước thì rộng thênh thang. Trên sân bà kê một cái kệ được ghép lại bằng mấy tấm gỗ ván ọp ẹp, bày la liệt các thứ linh tinh: bánh kẹo, dầu gió, thuốc lá… cũng có khi vài bó rau bà trồng trong vườn hay những trái mướp bị ong đốt còng queo. Ai cần gì đến mua bà cũng có, từ cây kim, cuộn chỉ đến lít dầu hỏa, dấm, đường... Người làng hầu hết sống ở bên kia con dốc, họa hoằn lắm mới có người ghé vào nhà bà khi có việc đi qua. Con dốc chỉ có tiếng chân người khi chợ họp vào sáng sớm, cái chợ tạm bên kia con dốc lèo tèo vài cái kệ, phủ bên trên những tấm bạt mốc thếch. Muốn đi chợ, người làng bên thường qua con dốc này để tránh đoạn đường lớn khá xa ngoài kia. Có khi họ dừng lại quán bà uống cốc nước chè hoặc ngồi trốn nắng. Mỗi khi có khách vào bà câm vui lắm, bà lật đật đi khiêng ghế cho khách rồi pha nước. Tan chợ, con dốc lại vắng tanh, quán bà cũng chỉ còn vài bông nắng lưa thưa nhảy nhót rồi tan biến mất. Bà câm lặng lẽ sống ở đó bao nhiêu năm, người trong làng cũng không còn nhớ nữa, chỉ nhớ mùa lụt năm đó, đêm đến nước sông đột ngột dâng lên ngập quá nửa cái cổng làng. Sáng hôm sau nước rút, người làng nhìn thấy một người đàn bà nằm sấp bên vệ đường, trên người còn đeo chiếc túi vải. Tưởng bà đã chết, người ta đưa về sân đình, đợi chôn cất. Nào ngờ bà còn thoi thóp, đến hôm sau đã ngồi dậy ăn được bát cháo. Người đàn bà tỉnh lại nhưng chỉ ú ớ, không nói được tiếng nào. Dân làng kéo ra sân đình xem người đàn bà xinh đẹp từ đâu không rõ dạt về mà lại bị câm.
Bà không nói, chỉ viết tên mình ra đất và xin được ở lại nơi đây vì gia đình chẳng còn ai, nhà cửa cũng bị lũ cuốn trôi. Làng xóm thương tình dựng cho bà cái chòi bên con dốc. Chỗ này tụi trẻ con trong làng ban đêm không dám đi qua, vì nghe đồn dưới chân dốc có nhiều ma trơi, đêm đến lại lập lòe trên đồng trũng. Nhà con Cải cũng bên dốc, cách nhà bà câm một mảnh vườn rộng. Mỗi khi bố mẹ ra đồng, con Cải lại vén hàng rào mon men qua nhà bà câm. Lần nào nó cũng đứng lấp ló ngoài cửa đợi bà ra nắm tay dắt vào. Thường thì nó chẳng phải đợi lâu, thoáng thấy bóng con Cải, dù đang vặt lá chè, kho nồi cá, hay khâu lại cái áo, bà cũng bỏ đó đứng lên ra dắt nó vào, cho nó ngồi trên cái chõng tre gần bếp lửa. Con Cải chỉ chờ có vậy, nó ngoan ngoãn ngồi xếp bằng trên cái chõng xem bà loay hoay với mớ chai lọ đựng những thứ lặt vặt. Mẹ nó kể ngày còn trẻ bà đẹp lắm, sau mùa lũ trôi giạt về, đàn ông trong làng nhiều người hỏi bà làm vợ nhưng bà chỉ lắc đầu, ở vậy. Gương mặt bà đến giờ vẫn đẹp, kín đáo, mặn mà. Dáng bà cao dong dỏng, đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng.
Cuộc sống của bà cũng thật đạm bạc. Ngoài các thứ linh tinh bày bán trên kệ, gia tài bà chỉ có một cái tủ gỗ cũ kỹ, một chiếc chõng tre và một cái kiềng ba chân để nấu ăn. Bên bếp luôn có một niêu cơm nhỏ xíu và một âu cá kho khô, bà kho đi kho lại đến quắt queo. Hết ngày này sang ngày khác, con Cải thấy thức ăn của bà chỉ có vậy. Lần nào Cải qua, bà cũng cầm bàn tay nó mân mê thật lâu, xoa xoa, nắn nắn rồi đưa lên mũi hít hà. Bà nội con Cải chết từ khi nó còn trong bụng mẹ nên nó thương bà câm lắm. Nó ngồi yên, giương đôi mắt đen láy nhìn mấy cái hũ đựng kẹo rồi lại nhìn bà. Lần nào hít hà bàn tay nó xong, bà cũng lật đật đến cái kệ run run mở nắp hũ kẹo dừa lấy cho nó mấy cái, tiện tay bà còn bẻ thêm quả chuối chín trên buồng treo lủng lẳng trước quán.
*
Con dốc vắng ngắt. Bà câm ngồi nhẩn nha khâu lại cái áo. Xa xa tiếng gà xao xác gáy trưa, thảng có tiếng xe trâu lục cục chạy qua. Chiều nay không thấy con Cải sang chơi, bà lẳng lặng soạn kim chỉ ra khâu vá cho đỡ buồn tay. Giàn mướp trước sân hết mùa, trơ ra những chiếc lá khô rụng xào xạc. Bà dừng khâu, đứng lên đấm thùm thụp vào cái lưng đau rồi mang chổi ra hiên quét lá. Quét xong bà chống cây chổi nhìn qua nhà con Cải, bên kia hàng rào im ắng, có lẽ con Cải xuống xóm dưới chơi với tụi trẻ trong làng. Gió hiu hiu đưa sang một mùi khen khét. Chắc cha nó lại dọn vườn, đốt lá, nghĩ vậy bà cúi xuống dồn nốt đám lá khô vào góc sân đợi chạng vạng đốt cho đỡ muỗi. Mùi khen khét bên nhà con Cải bay sang càng lúc càng đậm đặc, bà dừng tay vén hàng rào chui qua xem thử.
Trong vườn, con chó Lu đang cong đuôi chạy quanh sân, nhìn thấy bà nó vẫy đuôi ư ử như mách bảo nhà có chuyện. Một làn khói cuộn lên từ bên trong nhà Cải. Bà chưa hiểu chuyện gì, con Lu đã chạy đến cào vào chân bà kêu ăng ẳng. Bà sực tỉnh: “Thôi chết, mẹ con Cải ra đồng quên dập bếp lửa”. Bà lao vào nhà, bên trong mù mịt khói, lửa lúc này đã bén lên mái, lan ra cả vườn sau, ngùn ngụt cháy. Bà quýnh quáng ra lấy chậu nước tạt lia lịa vào đám cháy, nhưng không kịp nữa rồi, ngọn lửa bùng lên dữ dội. Trong lúc hoảng loạn, bà chợt nghe tiếng thét: “Cứu con!”... Là tiếng con Cải, bà câm sững lại. Hóa ra con Cải đang ở trong nhà. Vớ được cái chăn ở góc giường, bà lao về phía con Cải. Trong đám khói mù mịt, bà nhìn thấy nó ngồi co rúm, gương mặt thất thần. Chỉ kịp trùm cho nó cái chăn, bà ôm nó ra ngoài. Lúc này đám cháy đã bủa vây bốn bề, bà kiệt sức gục xuống nhưng vẫn quấn con Cải trong cái chăn thật chặt, nằm đè lên che cho nó. Ngọn lửa lan đến chỗ hai bà cháu, nóng rẫy. Bà chỉ kịp ú ớ “cứu… cứu…” rồi ngất lịm...
Người làng kéo đến, một lúc sau đám cháy được dập tắt. Căn nhà của con Cải bị thiêu rụi, chỉ còn là một đống đổ nát. Người ta tìm thấy xác bà câm nằm sấp bên cánh cửa, trong lòng bà, con Cải đen nhẻm vì khói, tóc tai cháy xém. Nó hoảng loạn không thốt ra được lời nào.
*
Con Cải ngồi trên cái nền gạch đã cứng lại như đá, trước khi bị phá đi, nơi này là cái chòi của bà câm. Nó thẫn thờ nhìn những cánh cò chấp chới ở cánh đồng làng bên bay về. Gió chiều hiu hiu khiến mấy sợi tóc đang bết lại trên trán nó bay phơ phất. Có lẽ gió cũng buồn. Trên cái sân gạch này, chỉ mới đây thôi là cái quán nhỏ, buổi trưa bà câm thường ngồi chải tóc. Xa xa có tiếng gà xao xác gáy. Ngọn lửa hôm nào đã thiêu rụi đám cỏ trong vườn, vạt đất trũng xuống, những bông hoa cỏ li ti, yếu ớt còn sống sót đang rung nhè nhẹ. Con Cải lại nhớ bà câm. Cho đến lúc bà chết đi, người làng cũng không ai biết rõ về bà, chỉ tìm thấy một tấm hình đen trắng đã nhòe, tấm hình duy nhất trong cái túi bà đeo bên người ngày bà trôi dạt đến làng. Trong hình là một đôi vợ chồng trẻ, người đàn bà gương mặt rạng ngời, trên tay bế đứa bé con nép bên chồng, là bà câm ngày xưa. Người làng chôn bà câm dưới chân con dốc, nơi bà đã đến và sống mấy mươi năm. Con dốc đến giờ vẫn buồn thiu.
Tránh nhớ về cảnh tang thương ngày nào, bố mẹ con Cải quyết định dọn nhà vào trong làng. Hôm nó nghe bố mẹ bàn bạc, đợi đủ năm sẽ đưa bà câm về nằm trong vườn nhà cho ấm. Mỗi khi đi học về, ngang qua con dốc, con Cải luôn dừng lại bên mộ bà câm, nó lặng lẽ nhổ cỏ, thầm thì kể chuyện nhà, chuyện lớp cho bà nghe.
Người trong làng đến giờ vẫn nhắc đến bà câm. Riêng con Cải là người duy nhất trong làng được nghe tiếng bà vào giờ phút cuối. Tiếng của người đàn bà một đời câm lặng. Mỗi khi đi qua con dốc, thấy những bóng nắng buồn tênh khẽ lay động trong tiếng gió xào xạc, con Cải lại tưởng như bước chân bà câm đang đến bên nó, chải mớ tóc rối cho nó. Mắt nó cay cay…