Trường ca Hốc chọ thấm đẫm bản lĩnh Nghệ
Nhà văn Bùi Sỹ Hoa, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vừa ra mắt công chúng yêu văn học, thơ ca một tập trường ca có tiêu đề rất lạ: Hốc chọ. Hốc chọ là gì, nghe độc đáo và kỳ bí vậy?
Theo giải thích của tác giả thì đó là vùng khai hoang của những người nông dân miền Trung, mà cụ thể của nông dân Nghệ An khi thiếu đất canh tác thì họ tổ chức thành một đoàn người tìm kiếm những mảnh đất mới để khai hoang làm kinh tế: “Vùng khai trang, lập trại nơi rừng sâu, núi thẳm. Là vùng đất khó dưới/giữa chân đồi theo từng con nước, được người dân nhiều nơi ở Nghệ An gọi là hốc/hóc chọ, gọi chung là Hốc chọ”.
Chúng ta còn nhớ những năm sáu mươi của thế kỷ trước vừa đi qua cuộc chiến tranh chống Pháp, miền Bắc đã dấy lên phong trào khai hoang ở các tỉnh Đông Bắc, Tây Bắc, Việt Bắc nên hình ảnh những người nông dân chân lấm tay bùn đã lấp lánh trong thơ Hoàng Trung Thông rất đẹp: "… Chúng ta đoàn áo vải/ Sống cuộc đời rừng núi bấy nay/ Đồng xanh ta thiếu đất cày/ Nghe rừng lắm đất lên đây với rừng… Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm!" (Bài ca vỡ đất).
Tập trường ca Hốc chọ của Bùi Sỹ Hoa gồm 757 câu thơ với nhiều cung bậc cảm xúc, khi thì nhà thơ hồi tưởng về người ông của mình, một người nông dân xứ Nghệ hay lam hay làm, kiên cường quật khởi như một tinh thần Nghệ, một bản lĩnh Nghệ, thật thà hay chữ nhưng đối mặt với thực tế phũ phàng ở quê nghèo theo cách nói dân gian: “Chó ăn đá, gà ăn sỏi” trầm tư suy tưởng : “Đêm đầy sao/ Tiếng vạc nhạt vào khuya lãng/ Ông tôi ngồi xa xăm/ Bóng xiên liếp nhà húng hắng/ Chắt cạn ấm chè xanh/ Hớp cuối cùng ức nghẹn/ Thơm ngọt đầy tràn, đắng chát chưa trôi…”. Trong cái đêm nóng nực, oi nồng của mảnh đất miền Trung đầy gió Lào và cát trắng khắc nghiệt ấy, giấc mơ của những người nông dân với khát vọng đổi đời, quyết tâm dùng bàn tay chai sần của mình khai phá rừng hoang với giấc mơ: "Giấc mơ gieo trồng dày nhánh sây bông/ Giấc mơ khai khẩn hốc chọ bòn mót/ Giấc mơ sách đèn mở mày ngẩng mặt/ Giấc mơ đi qua tháng ba ngày tám…".
Đọc đến đây, chúng ta liên tưởng đến một miền Trung khắc nghiệt, gian khó vô cùng đến muốn khai hoang, phục hóa cũng phải bòn mót từng mảnh đất y hệt đồng bào Mông trên cao nguyên đá Hà Giang phải chở đất bên sông suối cho vào từng hốc đá để trồng ngô… Có một miền Trung được mô tả trong thơ Phạm Ngọc Cảnh: “Sông suối dày tơ nhện và núi choài ra biển”. Còn trong thơ Nguyễn Thế Kỷ thì lạc quan, hào sảng hơn: “Sông, biển, trời xanh ngăn ngắt/ Những chàng trai lãng mạn, kiên trung/ Những cô gái nồng nàn hơn bếp lửa/ Ông đồ tráp đen lắm chữ thánh hiền”.
Một miền Trung gian nan như thế, một Nghệ An nắng nỏ bão dông đã đi vào lịch sử dân tộc trong dựng nước và giữ nước. Còn đây, trong trường ca Hốc chọ của Bùi Sỹ Hoa thì những người nông dân khắc khổ quyết tâm vượt khó trong công cuộc mưu sinh: "Rừng cháy rặt người đốt than/ Than cháy đượm người ngồi rang nước mắt/ Bàn tay khuấy vào trống không/ Bàn tay thõng buông bất lực/ Bàn tay ngửa khúm núm vay khất/ Bàn tay khum đón nhận mùa vàng/ Bàn tay vung lên quyết dành việc lớn/ Bàn tay chai quen chặt to, kho mặn/ Bàn tay búp măng chữ nghĩa cuốn như rồng…".
Đọc những câu thơ gân guốc mà nhà thơ Bùi Sỹ Hoa khắc họa về
chân dung những người nông dân xứ Nghệ khai khẩn đất canh tác trong rừng sâu, núi thẳm để mưu sinh thì ta càng thấm thía, càng khâm phục một bản lĩnh Nghệ không chịu khuất phục trước gian khó do thiên tai địch họa… Trong trường ca Hốc chọ, Bùi Sỹ Hoa có trường đoạn viết về cá gỗ rất hay. Từ hình ảnh con cá gỗ mà giai thoại trong dân gian nói về ý chí học hành, đèn sách của một vùng quê nổi tiếng về khoa cử cũng sinh động đến mức hồn nhiên, mộc mạc: "Tôi là cá gỗ/ Người làng tôi, quê tôi nuôi chí quan trường/ Đi ra bằng vai phải lứa/ Giữa trời ai kém chi ai/… Tôi là cá gỗ/ Thầy tôi kinh thành lều chõng ứng thí/ Thầy tôi gánh ba bồ chữ/ Lận lưng đôi cắc gọi là…".
Ở một trường đoạn khác khi viết về người bà của mình, một người phụ nữ xứ Nghệ tiêu biểu, đảm đang, kiên cường cùng chồng con quyết vượt qua gian khó nhưng rất coi trọng con chữ thánh hiền, tôn vinh sự học: "Ông bà thương nhau thuở suối khe tình tứ/ Thủa nhạt muối đắng gừng kèo cột tít rừng xanh/ Ông thương bà nết ăn, nết ở/ Bà thương ông chí lớn chưa thành/ Nhà nông thường ngày ông tôi thả cày về nhà dạy chữ/ Bà tôi mài mực đọc ngược truyện Kiều…".
Bằng ngôn ngữ hàm súc, cách kể chuyện trong trường ca của tác giả mượn ý thay lời, nhưng câu thơ chắt lọc rất tinh tế, khi thì mượn ý ca dao, tục ngữ, khi thì lấy hình ảnh và giai thoại dân gian để tôn vinh truyền thống học hành khoa cử và tôn sư trọng đạo của quê mình. Phải nói là tác giả Bùi Sỹ Hoa mang đến cho người đọc một cảm giác thích thú, dẫn dụ người đọc đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về cái tài sử dụng ngôn ngữ dân gian, đặc trưng của phương ngữ xứ Nghệ mà vẫn hiểu được, cảm thụ được.
Ở một trường đoạn kết thúc tập trường ca, tác giả mạnh dạn thể hiện những câu thơ lục bát rất bay bổng để ca ngợi những thành quả lao động của những người khai trang, lập nghiệp nơi rừng sâu: "Đồng khua giấc bay mơ màng/ Chòi thóc-quà của mùa màng đợi chim/ Róc rách suối mát khát tìm/ Rừng xanh là mái núi chìm giữa xanh/ Rừng thiêng, thiêng cội thiêng cành/ Che chung mát mướt mà thành quê hương…".
Trường ca Hốc chọ đã chinh phục người đọc bằng cách kể chuyện giản dị, ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng thơ dữ dội khi tác giả mô tả về thiên nhiên, đất đai, nỗi cơ cực của con người phải tự định đoạt tương lai, cuộc sống của mình trong môi trường khắc nghiệt. Bằng thủ pháp nghệ thuật rất giản dị đó, nhà thơ Bùi Sỹ Hoa đã nêu bật chủ đề tập trường ca là ca ngợi tinh thần kiên cường, sự nhẫn nại, cần cù của những người nông dân xứ Nghệ và đã làm nên một bản lĩnh Nghệ, một tinh thần Nghệ.
Nhà thơ Bùi Sỹ Hoa là một cây bút đa tài trong nhiều lĩnh vực, đây là tập thơ thứ 7 của ông sau hơn 40 năm làm báo, làm văn.