Future Neo - chuẩn mực xe số gần 20 năm trước
Future Neo 2005 thiết kế mới là cơn sốt thời bấy giờ, và vẫn bền bỉ sau gần hai thập kỷ, ít lỗi vặt.
Honda Future Neo ra mắt vào cuối năm 2005 tại thị trường Việt Nam. Có 3 phiên bản xe được phát hành qua từng năm, bao gồm, Future Neo (2005), Future Neo GT (2006) và Future Neo Fi (2007). Phiên bản trong bài là Future Neo GT, xe đã di chuyển được hơn 80.000 km.
Khi ra mắt, Future Neo được cho là chuẩn mực của một mẫu xe số tầm trung. Xe được trang bị động cơ 125 phân khối (từ 2007 có phun xăng điện tử Fi), tách biệt hẳn so với những mẫu xe phổ thông 100-110 phân khối khác trên thị trường, cùng những công nghệ hiện đại, hiếm được áp dụng trên xe số lúc bấy giờ như mâm đúc, đồng hồ điện tử, khoá từ nắp ổ khoá.
Chính vì thế, dòng Future gần như là cái tên đầu tiên trong đầu người tiêu dùng khi nói về một mẫu xe số tầm trung bển bỉ, chất lượng tốt, nhiều công nghệ từ một hãng đã có mặt lâu đời tại Việt Nam.
Future Neo có kích thước dài x rộng x cao (mm) là 1.890 x 705 x 1.085, độ cao yên 767 mm. Mẫu Future 125 Fi phiên bản 2023 có kích thước là 1.931 x 711 x 1.083, độ cao yên 756 mm.
Mang thiết kế khác biệt so với hai phiên bản trước đó là Future I ra mắt vào 1999, Future II năm 2004, Future Neo mang nhiều đường nét hiện đại, gọn gàng. Chính vì điều này Future Neo đã thu hút được khách hàng ở nhiều độ tuổi, cần một mẫu xe số nam tính, bền bỉ lẫn bền dáng. Sự cân đối của thiết kế đời này thậm chí được rất nhiều người dùng đánh giá vẫn là chiếc Future đẹp nhất từ trước tới nay.
Đầu xe có thiết kế thon gọn, tối giản, chỉ có một bóng đèn chiếu sáng duy nhất, đèn định vị (hay đèn chạy ban ngày) là một trang bị rất hiếm trên các xe phổ thông vào thời kỳ này.
Hiện sau gần 20 năm, đèn hoạt động yếu, chập chờn, lúc sáng lúc tối khi xe ở trạng thái dừng (idle).
Đối thủ Yamaha có chiếc Jupiter cùng phân khúc ra đời từ 2001, nhưng Jupiter như phong cách chung của các sản phẩm cùng hãng là thiết kế khá trẻ, không phù hợp trung niên, bởi vậy tập khách hàng cũng giới hạn hơn so với Future. Đồng thời, 20 năm trước, cảm tình về độ bền của xe máy vẫn nghiêng hẳn về Honda. Đến năm 2012, Jupiter mới có phun xăng điện tử, trong khi Future từ năm 2007.
Đèn xi-nhan tích hợp ở yếm xe. Hệ thống đèn trên xe là halogen. Phiên bản GT màu đen-xám là một trong những màu được săn đón nhiều nhất khi ra mắt, bên cạnh màu đỏ - bạc - đen và xám - trắng - đen.
Future Neo GT là mẫu xe đầu tiên được Honda Việt Nam trang bị vành đúc, tăng tính thể thao cho xe. Trang bị này giúp xe thanh thoát, hiện đại, gọn gàng hơn những mẫu xe sử dụng vành nan hoa, ngoài ra giúp xe nổi bật giữa dàn xe số, khi hầu như chỉ có xe tay ga, xe phân khối lớn sử dụng loại vành này.
Cả bánh sau và bánh trước là 17-inch, bánh trước trang bị phanh đĩa, sau là tang trống.
Phuộc sau của xe dạng lò xo trụ kép, giảm chấn thủy lực, có trang bị chụp xích xe. Hệ thống treo của xe phù hợp để di chuyển các chặng đường từ trung bình đến xa, đặc biệt cho cảm giác đầm chắc khi chở thêm người phía sau.
Future Neo được trang bị cụm đồng hồ cơ kết hợp điện tử, hiển thị mức xăng và công-tơ-mét, là một trong những xe số hiếm hoi trang bị cụm đồng hồ điện tử vào thời điểm 2005-2007. Các thế hệ Future trước đó sử dụng đồng hồ cơ hoàn toàn.
Cụm tay lái bên phải là nút đề, tắt bật đèn. Kích thước các nút nhỏ, chưa chú trọng về công thái học như những xe đời mới.
Tay lái bên trái bao gồm công tắc đèn, xi-nhan, còi, và lẫy đóng bướm gió.
Lẫy đóng bướm gió là một trang bị thường thấy trên các xe số dùng chế hòa khí, giúp xe dễ khởi động khi trời lạnh. Khi kéo lẫy, bướm gió khép lại, hỗn hợp khí vào buồng đốt lúc này giàu xăng, giúp xe dễ khởi động hơn. Phiên bản Fi không có trang bị này.
Xe được trang bị hệ thống khóa từ với 4 chức năng, là một trang bị tăng sự tiện lợi cho lái xe khi có thể tắt mở máy, kéo lẫy che ổ chống trộm, khóa cổ, mở yên chỉ bằng cụm khóa này.
Phần đuôi xe không cầu kỳ, đèn hậu có kích thước to, dễ quan sát. Tay nắm yên kích thước lớn, dễ dàng dắt xe.
Future là lựa chọn dành cho những người có tài chính dư dả hơn nhiều so với một chiếc xe số phổ thông dạng Wave Alpha, nhưng không thích những chiếc xe ga vì mang dáng dấp nữ tính hoặc tốn xăng theo quan niệm lúc bấy giờ. Sở hữu Future thời ấy thường được coi là người "có tiền".
Future Neo trang bị động cơ 125 phân khối, 4 thì, 4 cấp số, công suất 9 mã lực, mô-men xoắn 9 Nm. Dung tích bình xăng 3,7 lít. Có khởi động bằng cần đạp. Phiên bản Neo, Neo GT dùng chế hòa khí, Neo Fi dùng công nghệ phun xăng điện tử. Có thể nói khối động cơ 125 phân khối là thuộc loại cao ở thời bấy giờ, khi các xe số và xe tay ga phổ thông khác chỉ sử dụng loại máy 100-110 phân khối.
Khối động cơ 125 phân khối mà Honda sử dụng từ đời Future II trở đi được đánh giá là lành, ít hao nhiên liệu và hoạt động êm ái. Sau gần hai thập kỷ, xe vẫn nổ máy sau một lần nhấn đề, tuy nhiên, có một số trục trặc nhỏ như có một ít khói trắng ở ống xả khi hoạt động, nguyên nhân do piston bị hở bạc, hao mòn tự nhiên.
Về điều khiển, đầu xe có hơi rung ở những nước ga đầu, nhưng êm ái khi xe đã tăng tốc lên khoảng 30 km/h.
Đặc trưng của Future đời này khi vận hành là động cơ khoẻ hơn, bốc hơn và đặc biệt sang số rất mượt và tiếng kêu nhẹ, không "cộc cộc" ồn ào như Wave. Với Future, người lái đôi khi chỉ cần nhích nhẹ mũi chân là có thể sang số mà không cần dùng lực mạnh, mang tới trải nghiệm lái nhẹ nhàng, thanh cảnh hơn nhiều so với đàn em.
Sau gần hai thập kỷ, xe trong bài có những lỗi nhỏ như dễ bị kẹt số khi chuyển từ số 3 sang số 4, hệ thống đèn chập chờn, đầu rung. Ngoài những lỗi này, Future là dòng xe ít lỗi vặt, dễ sửa chữa, thay thế linh kiện.
Hiện tại giá của Future Neo cũ trên thị trường khoảng 15-25 triệu đồng, cá biệt có những xe được rao bán đến 30-40 triệu đồng, lý do là đi ít, chưa tác động vào máy.
Vào thời điểm ra mắt, Future Neo có giá 22,5-24 triệu đồng, tùy vào màu sơn, trang bị phanh đùm/phanh đĩa phía trước.