Ngày nước rươi
Xã hội - Ngày đăng : 15:18, 10/11/2019
Tháng mười cũng là tầm lúa trên cánh đồng bãi triều đang trĩu hạt, đỏ đuôi. Những cây lúa nặng bông, xiêu xiêu ngả vào nhau, hướng theo chiều gió heo may. Lại đến ngày nước rươi quê mình: "Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm". Ngày nước rươi, ấy là ngày con nước. Hồi còn bé chúng tôi cứ nghĩ là ngày nước cường, nước từ sông dâng cao, tràn vào đồng, cuốn theo rươi từ sông vào. Nhưng mãi sau mới biết rươi từ dưới đất chui lên.
Cứ đến ngày nước rươi là người lớn, trẻ con làng mình đổ ra đồng như hội. Những người đi vớt rươi sắm một cái vợt vải màn nhỏ bằng bàn tay và cái bơ, cái bát mang theo. Người lớn, trẻ con một tay cầm bát, một tay cầm vợt, đi lướt trên mặt ruộng, nhìn thấy con rươi bơi trên mặt nước là vớt, rồi đổ vào cái bơ, cái bát. Cho đến lúc nước rút xuống cạn dòng là không thấy con rươi nào bơi ra nữa. Trẻ con cho là rươi đã biến đi đâu một cách bí hiểm. Người lớn còn tranh cãi nhau, có người cho là rươi theo nước ra sông, có người cho là rươi chui xuống đất...
Về làng, người mẹ rắc vài hạt muối vào, bát rươi bỗng hóa thân thành bát bột rươi màu vàng đậm đặc. Nhà này chạy sang nhà kia xin nắm lá lốt, vài lát vỏ quýt làm gia vị. Rồi bếp nhà nào cũng đỏ lửa. Mùi rươi rán từ trong bếp thoảng bay ra sân, ra ngõ. Đi trong làng quê ngập tràn mùi thơm rươi rán. Đúng là buổi trưa như hội ngoài đồng thì buổi chiều tối đầm ấm mọi nhà quanh mâm cơm với những miếng chả rươi thơm ngon đậm đà. Còn gì hạnh phúc hơn người nông dân quê mình với những ngày nước rươi.
Thế rồi, HTX đắp cao bờ vùng, bờ thửa, lấp cống ngăn nước lợ vào đồng. Năm hai vụ cấy cày, phân hóa học, mỗi vụ mấy lần chăm bón làm chai cả mặt ruộng. Lại mấy lượt phun thuốc trừ sâu bệnh. Được cây lúa mà đất trồng như bị “ám sát”. Làng mình bỗng mất đi cái ngày hội ra đồng vớt rươi, mất đi cái hương vị thơm ngon, béo ngậy của đặc sản rươi. Câu chuyện ngày nước rươi chỉ còn trong nỗi nhớ của những người già và như huyền thoại của trẻ nhỏ.
Mới đây những nông dân trẻ quê tôi đi xa về làng đã rủ nhau nhận hàng mẫu ruộng khu triều bãi, đắp bờ vùng, cải tạo đất, dẫn nước lợ vào đồng nuôi rươi. Những vùng đất được cải tạo. Người già bảo: “Cả làng hãy xem, mấy thằng con trẻ làm xiếc trên đồng!”. Bọn trẻ bảo: “Xin các bô lão hãy đợi đấy, xem con rươi từ trên trời rơi xuống hay từ đất chui lên?”.
Đến dịp "tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm", người làng lại kéo nhau ra bãi triều đông như đi xem hội. Còn đông hơn cả người làng ngày xưa ra đồng triều vớt rươi. Những dòng nước màu gạch cua mát lịm dẫn từ sông vào. Trẻ con vừa reo vừa nhảy lên: “Rươi ra rồi! Rươi bơi ra rồi”. Những người già cúi xuống, như dán mắt vào mặt nước rồi ngẩng mặt lên trời: “Trời cho bọn trẻ rồi! Rươi ra nhiều lắm các ông, các bà ơi!”.
Rươi theo nước mát mà chui từ đất lên. Những con rươi vàng ươm như đầu đũa, đùa rỡn trên mặt nước. Nước bắt đầu rút, mấy cậu đấu thầu nuôi rươi mới đóng xăm chặn ở các máng nước. Rươi nối đuôi nhau bơi theo dòng nước vào xăm. Chỉ một giờ sau, nước rút cạn hết các vùng đất, những xăm rươi được kéo lên nặng trĩu, phải đỡ bằng hai tay mới nhấc nổi. Rươi từ các xăm đổ ra các chậu, chậu đầy phải san ra cả những thùng xốp. Mấy người già bảo nhau: “Bọn này tăm được đúng ổ rươi hay sao mà nhiều thế?”.
Chiều tối ấy, người mang bát ra, cứ như ngày xưa đi vớt, nhưng lần này mỗi nhà được múc một bát. Mấy bà bảo nhau: “Bao nhiêu tiền một bát, hay là cánh trẻ này nó cho!”. “Các cậu ấy đã đấu thầu đất, phải đầu tư nên ăn rươi phải trả tiền người ta chứ…”. Chiều tối là nhà nhà lại thơm nức mùi rươi rán.
Thế là qua vụ đầu nuôi rươi ở bãi triều đã thắng lợi, rươi trở thành thương hiệu của quê mình. Khắp nơi về đặt mua để chế biến các món ăn từ rươi.
Mỗi lần về quê, nhìn bãi triều nuôi rươi, tưởng chỉ còn là câu chuyện ngày xưa của người già, huyền thoại của bọn trẻ. Thế mà cánh trai trẻ làng mình đã làm cho huyền thoại xưa thành hiện thực.
Tản văn của NGUYỄN THANH CẢI