Ngược bấc
Truyện ngắn - Ngày đăng : 08:14, 06/08/2023
Minh họa: PHÙNG BẢN
Ngần đổ người vào lưng gã xe ôm khi gã phanh đột ngột, tiếng phanh ken két nghiến xuống đường bê tông xói vào lỗ tai trong tiếng gió bấc rít róng gợi cảm giác ghê người. Ngần nhớn nhác tìm bóng cây găng đầu đồng Mật mà chưa thấy.
- Chú nhầm đường rồi. Tôi bảo tới đồng Mật làng An cơ mà!
- Chả đồng Mật làng An còn gì? Sau hai dãy nhà ống kia chính là làng An.
Giọng gã xe ôm đã không còn ngọt ngào như lúc vừa nhìn thấy Ngần bước xuống ô tô nữa. Đánh một cái nhìn thật dài rộng ra bốn phía, Ngần vẫn nghi ngại. Đồng Mật đây ư? Đồng Mật mười lô cò bay mỏi cánh? Chả nó đấy, giờ đồng còn hoẽn một vũng ở phía sau mấy dãy nhà máy, nhà ống kia. Chị ở đâu về mà như từ trên giời rơi xuống ấy.
*
Đêm ấy, trăng mười sáu, sau khi đi cùng nhóm thanh niên tới chia tay Đoài mai lên đường đi bộ đội, lúc ra tới cổng, Đoài rỉ tai Ngần đợi Đoài ở cây cầu đá nhỏ bắc qua con sông gần ngõ rẽ vào cổng nhà Đoài. Hai người ngồi trên thành cầu, nói bao nhiêu điều Ngần chẳng nhớ nổi, hứa bao nhiêu lời và cả thề thốt. Trời càng về khuya, trăng càng lên cao, ánh trăng trong veo soi bóng đôi trai gái xuống dòng sông lấp lánh. Sương đã rơi ướt mái tóc dài chấm lưng của Ngần, Đoài luồn tay sau làn áo ôm lấy eo Ngần và tìm môi Ngần đặt nụ hôn đứng im trong vắt như trăng giữa trời, chỉ còn nghe có tiếng sóng nước vỗ dưới chân cầu và tiếng lồng ngực hai người đập thình thịch như trống trận, hơi thở quện chặt vào nhau. Ngần nhắm nghiền mắt tưởng như đang nắm tay Đoài bay giữa cánh đồng lúa xanh trong ánh trăng ngà ngọc. Bỗng nhiên có tiếng gậy khua lộc cộc trên thành cầu, tiếng dép lê loẹt quẹt và cả tiếng ho sù sụ khiến cả hai rời vội nhau ra. Mặt mũi Ngần nóng bừng khi nhìn thấy bóng một người đàn ông chậm chạp tiến lên phía đầu cầu bên kia. Ngần vùng chạy, Đoài đuổi theo, tóm được tà áo, níu lại, đừng sợ em! Ông Sam mù ở một mình cuối làng Mai đấy! Chắc ông ấy đi ra ga xin ăn về muộn. Ngần nhìn lại lên cầu, thấy người ấy là một khối đen lùng nhùng áo quần rách rưới, một tay cầm gậy dò đường, một tay đeo cái bị cói cũng rách tướp bơ, mùi hôi hám đang bay đến gần, tiếng gậy cộc cộc như gõ vào tim Ngần. Ngần thì thầm, ông Sam như ma ấy, ghê quá! Ông ấy mù tịt rồi chả nhìn thấy mình đâu. Đoài ôm lấy Ngần cái nữa, nhưng Ngần không còn thấy mê đắm như lúc trên cầu vì cái khối đen rách rưới kia vẫn đang dò dẫm tiến sang bên này cầu như đeo bám ám lấy hai người, Ngần gỡ tay Đoài ra, nũng nịu, khuya rồi, em về đây, bố mẹ mà biết thì chết.
*
Không chỉ có bố mẹ mà cả làng ai cũng biết Ngần và Đoài yêu nhau, ngay trong sáng hôm tiễn Đoài lên đường, Ngần chạy theo xe Đoài, cố nắm lấy tay Đoài lần nữa, mắt đỏ hoe nhìn nhau không muốn rời, rồi xe cũng phải tăng tốc cho kịp đoàn. Ngần ngồi thụp xuống đường ôm mặt khóc tức tưởi. Đằng trước, đằng sau, bên cạnh Ngần cũng có nhiều cô gái khóc như Ngần, những người lớn đưa tiễn cũng bùi ngùi quay đi lấy vạt áo lau nước mắt. Tình yêu vừa chớm nở, người yêu xung phong ra trận, nơi tiền tuyến, chiến tranh vẫn còn đang ác liệt, người đi thì đông thế, lúc trở về biết còn được bao nhiêu, làng đã nhiều trai tráng ra đi chẳng trở về. Nhưng Ngần tin, Đoài nhất định trở về. Đoài đã hứa với Ngần rồi. Đoài chưa bao giờ thất hứa. Ngần sẽ đợi Đoài về. Ngần thề với lòng mình như thế. Rồi Ngần nín khóc.
Thế mà Ngần đã đi lấy chồng. Có phải do chiến tranh làm cho các mối tình tan vỡ hay tại Ngần tầm thường, bội phản. Cuộc hôn nhân chớp nhoáng với Khu - người con trai có điều kiện mà Ngần lựa chọn trong khi tư tưởng đang chơi vơi bên bờ vực thẳm tưởng có thể đem hạnh phúc đến cho Ngần hơn là Đoài. Nhưng không phải. Ngay từ lúc Khu vẫn còn sống thì Ngần đã nhận thấy Ngần đã phản bội Đoài để đi lấy người khác là một sai lầm trầm trọng nhất cuộc đời. Khu chẳng nói gì hay không cảm nhận thấy Ngần vẫn gặm nhấm nỗi ân hận trong lòng cho đến lúc Khu bị bệnh đột ngột ra đi, Ngần ngấm ngầm đau khổ trong sự đơn độc một mình. Chẳng ai đả động gì tới chuyện của Ngần nữa. Nhưng sau khi Khu mất, Ngần ngấm ngầm đọc được trong ánh mắt của dân làng đang nói lời Ngần bị quả báo vì đã bội phản, tầm thường. Ngần càng ít đi tới chỗ đông người. Những buổi hội làng, những đêm hát chèo ở sân đình, Ngần đứng đầu hiên ngóng ra hướng ấy nghe tiếng hát, tiếng đàn dội về mà thấy lòng bứt rứt. Ngần tránh chạm mặt Đoài, cùng làng khác đội sản xuất mà như Bắc với Nam. Ngần quàng khăn bông kín, cụp nón sùm sụp bước vội qua cầu đá, đi thật nhanh qua ngõ nhà Đoài. Oái oăm thay, gặp mấy bà làm đồng ngồi nghỉ ở bụi tre gần cầu ngay cạnh cánh cổng gỗ có giàn hoa giấy tím nhà Đoài kéo quang lại đòi mua. Ngần chần chừ chưa biết nên thế nào vì không muốn dừng lại nơi này lâu sợ chạm trán với Đoài thì chợt Đoài loạng quạng đạp xe về, vẫn là chiếc xe đạp xưa Đoài đèo Ngần. Đoài chào Ngần như người hàng xóm vẫn gặp hằng ngày rồi bảo Ngần cứ ngồi đó mà bán, mấy hôm trước cô Bưởi, bà Nhu cũng mang rổ rá, mang chổi ra đây ngồi bán, chỗ này ngã ba nhiều người qua lại dễ bán. Mặt Ngần che kín trong làn khăn bông cứ nóng bừng bừng, Ngần không dám ngước lên nhìn Đoài, chỉ nghe tiếng bánh xe cót két lăn đều vào trong sân nghiến trở lại ngực Ngần nhức nhối.
*
Cây cầu đá nhỏ bắc qua con sông mềm mại như một dải lụa vẫn rêu phong, trầm mặc như một người già, cầu đứng lặng bên dòng sông kệ cho dòng đời cuộn trôi. Tiếng lách cách vót vót đan đan tan vào trong cơn gió bấc, khiến nước mắt Ngần tự dưng ứa ra. Đoài đã từng bị thầy vụt cho ba roi vì tội dám cả gan lấy trộm mê rổ thầy đan xong chặt đi làm một cái rổ con để cho Ngần đựng kim chỉ khâu vá thêu thùa.
Gió bấc ào ào thổi, lá tre bay hất vào mặt Ngần, một con muỗi mắt bay theo chui tọt vào mắt khiến mắt Ngần đau nhói, khó chịu. Lấy tay dụi mắt, Ngần chẳng nhớ lời bác sĩ dặn rằng không được lấy tay dụi mắt, như thế càng làm cho mắt tổn thương, khó mà khỏi bệnh. Đến cả lời bác sĩ dặn phải hạn chế khóc, không được khóc thì tình trạng bệnh tình mắt Ngần mới có thể giữ ổn định lâu dài được chứ không là khó chữa nhưng Ngần cũng có làm được đâu. Càng về sau này, nhiều đêm mất ngủ, Ngần cứ khóc thầm, khóc đến nỗi mắt đỏ mọng, sưng vù lên, nhức nhối mà vẫn không thể thanh thản được. Khóc nhiều hơn cả cái lần Khu đột ngột bỏ mẹ con Ngần mà đi. Bố mẹ Ngần lúc ấy cũng đã về quê, trên này, bố mẹ chồng bị quỵ ngay khi con trai mất. Ngần chơi vơi như con thuyền nan giữa biển khơi giông bão. Bà con xóm giềng mỗi người một tay giúp làm ma cho Khu, trong đó có Đoài. Sau này, mấy bà trong họ kể lại Ngần mới biết. Không thuê được đội kèn xã bên vì họ cũng có đám, chính Đoài đã đạp xe đi xa gần hai chục cây số thuê đội kèn trống về cho, lúc trở về trời nhập nhoạng tối, Đoài đã đâm xe vào gốc găng bị sưng cả đầu gối, bởi thị lực Đoài đã rất yếu. Đoài bị thương nặng, hỏng hẳn một bên mắt phải, mắt trái cũng chỉ nhìn được bằng một phần ba bình thường. Thế mà biết tin Đoài bị thương nặng đến mù mắt, Ngần đã viết thư cho Đoài, Ngần ý tứ nói rằng không thể chờ Đoài được nữa. Vài tháng sau thì Ngần đi lấy chồng. Ngần đã hèn hạ và phản bội Đoài khi Đoài vừa lành vết thương giữ được mạng sống, phải nhờ người đồng đội bên cạnh đọc thư hộ, đến đoạn anh ấy ngập ngừng không đọc tiếp được, Đoài linh tính được điều không lành đã bảo không cần đọc nữa rồi lấy thư cất lại trong ba lô.
*
Chiều ấy cũng gió bấc tràn về đầy sông, đầy đồng, đầy làng. Cành cây cọ quệt vào nhau kêu răng rắc, lá cây bị gió táp rơi rụng lả tả khắp đường. Ngần mang cái rổ đựng kim chỉ ra khâu cái áo bông đã sứt chỉ, vừa khâu vừa đọc lại hai lá thư Đoài gửi về đã sáu tháng, đọc thuộc từng câu từng chữ mà vẫn cứ bỏ ra đọc lại vì nhớ Đoài. Bỗng cái Yên hớt hải chạy tới, vừa thở vừa nói không ra câu, Ngần ơi... anh Đoài bị thương... mù cả hai mắt rồi! Lá thư trong tay Ngần rơi xuống nền nhà, tai Ngần ù đi, chân tay nhũn ra, miệng thì cứng lại. Không có cái Yên chạy lại đỡ thì Ngần đã đổ khụy xuống như cây chuối bị gió quật bật gốc. Cái Yên thấy bên nhà anh Đoài có tiếng người khóc như ri bèn vén rào chạy sang thì hay tin về anh ấy. Trong một trận đánh lớn, anh Đoài bị thương nặng do pháo địch, hai mắt bị hỏng hết, đã đưa về tuyến sau chạy chữa nhưng cũng chưa biết thế nào.
Ngần nằm bẹp cả mười ngày, khóc và mất ngủ, miệng đắng ngắt, chân tay rời rã như bị ai tháo từng khớp ra. Ngần khóc cạn nước mắt thì bố bảo, khóc nhiều thì đâm điên đâm mù như ông Sâm mù bên làng Mai ấy. Ngần rùng mình khi nhớ tới ông mù với tiếng gậy lộc cộc dò đường và mùi hôi hám bốc lên. Lòng Ngần chênh chao sợ hãi khi nghĩ rằng lúc trở về Đoài cũng sẽ như ông ấy, bao nhiêu hứa hẹn tốt đẹp giờ đen như đêm như than như bùn, tương lai sẽ chỉ là bóng tối khi chờ đợi một người đã bị hỏng hai mắt và còn cả những vết thương khác. Đang quay cuồng trong mớ lùng bùng sợ hãi ấy thì Khu đến ngỏ lời muốn cưới. Những lần trước, Ngần đuổi Khu về. Lần này, Ngần im lặng. Ngần vừa hay sóng cả thì đã ngã tay chèo. Khu bảo người lớn tới nói chuyện ngay. Khi biết tin Ngần viết lá thư kia cho Đoài và nhận lời Khu, chị gái và chị họ Ngần đã mắng Ngần nông cạn, nhỏ nhen, cái Yên đã chửi Ngần là đồ hèn, đồ đểu. Ngần khóc. Ngần thấy Ngần đúng là đồ hèn thật. Ngần ích kỷ, nhỏ nhen, thực dụng và đểu giả thật. Ngần là kẻ phản bội vì hèn, vì thấy người yêu bị thương mù mắt mà bỏ đi lấy chồng. Ruột gan Ngần tưởng luôn bị vò bị xé nát ra trăm mảnh ngay sau đêm tân hôn. Khi Ngần có thai được năm tháng thì hay tin Đoài về. Gặp Ngần trên đồng, cái Yên nói như vả vào mặt Ngần, vị bác sĩ người Nga đã cứu chữa tận tình cho anh ấy nên may một mắt vẫn còn nhìn thấy lờ mờ, vừa về nhà mà anh ấy đã lôi chiếc xe đạp cũ ra lau chùi để chuẩn bị tập đi xe đạp lại.
*
Cánh cổng gỗ khép hờ. Trong sân vọng ra tiếng chẻ tre vót nan lạch cạch. Một bé gái chạy xồ vào người Ngần khiến Ngần loạng choạng, đôi mắt trong veo ngước nhìn Ngần, cô tìm nhà ai ạ? Ngần ngắc ngứ, à... không... Vừa qua cánh cổng, tiếng cô bé đã lảnh lót như chim khuyên, bố mẹ, nay con được mười điểm, bố đan thưởng cho con một cái làn thật đẹp để con đựng búp bê nhé! Tiếng người mẹ nựng con âu yếm, may sao đợt gió bấc này mắt bố lại không bị đau nhức. Mười sáu năm rồi, nhưng Ngần vẫn nhận ra tiếng cái Yên, cả tiếng Đoài vừa vang lên dội vào tai Ngần trong cơn gió bấc, con gái bố giỏi quá, bố đang đan đây! Ngần lau nước mắt, vội vã quay đi. Ngược bấc. Cơn gió chợt giật mạnh làm những cánh hoa giấy đã nhạt màu bay lả tả, cát bụi cuốn lên.
Truyện ngắn của CẨM DƯƠNG