Học tập cách viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tin tức - Ngày đăng : 07:51, 19/06/2011
Một điều rất dễ nhận thấy là các bài viết của Bác Hồ thường ngắn. Phải có bản lĩnh, có trí tuệ phong phú mới viết ngắn được! Những bài báo của Bác được viết ra với một mục đích cụ thể là để người đọc dễ hiểu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện báo chí cách mạng Việt Nam. Ảnh tư liệu
Trong lý lịch còn giữ tại kho lưu trữ của Quốc tế cộng sản trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi ở phần nghề nghiệp: "Nghề viết báo" bên cạnh một số nghề khác.
Đồng chí Phạm Văn Đồng viết: "Hồ Chí Minh là nhà chiến lược, nhà lãnh đạo, nhà tổ chức, đồng thời là nhà văn hóa, nhà thơ lớn. Suốt đời Hồ Chí Minh là người cầm bút chiến đấu trên mặt trận văn hóa, báo chí, với một văn phong đa dạng, nhiều sắc thái". Nhưng ông cũng viết: "Người ta đã nói nhiều về phong cách nói và viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi không nhắc lại, nhưng phải nhấn mạnh rằng: Anh em, đồng chí chúng ta vẫn chưa học được phong cách tuyệt vời của Bác. Trong một bài viết hoặc bài nói, Bác không chỉ chú ý từng câu, từng chữ, mà còn chú ý nói cái gì trước, cái gì sau, bởi vì có khi đó lại chính là điều quan trọng nhất".
Một điều rất dễ nhận thấy là các bài viết của Bác Hồ thường ngắn. Phải có bản lĩnh, có trí tuệ phong phú mới viết ngắn được! Những bài báo của Bác được viết ra với một mục đích cụ thể là để người đọc hiểu được - nhớ được - làm theo được. Và muốn thế, Người nói: "Muốn cho người đọc hiểu được, nhớ được, làm được thì phải viết cho đúng trình độ người xem". Trong cách nói, cách viết, Bác Hồ luôn chú ý tránh những thông tin thừa, những gì mọi người đã biết rồi Bác không viết nữa. Trong nhiều cuộc nói chuyện Bác thường nói: "Điều đó, chắc các cô, các chú đã hiểu, Bác không nói nhiều". Trong những bài viết, Bác thường dùng những câu ngắn, giản dị, sáng rõ.
Trong bài "Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa" ngày 22-9-1945, in trên báo Cứu Quốc số 49, Bác Hồ chỉ viết có 192 từ. Thư gửi Báo Thiếu Sinh số 1, tờ báo của trẻ em đầu tiên, Bác chỉ viết có 49 từ. Thư gửi các vị phụ lão ngày 20-9-1945, Bác viết có 299 từ.
Ngay đến một văn kiện quan trọng bậc nhất, đó là bản Tuyên ngôn độc lập - một văn bản lập quốc vĩ đại, đọc tại Ba Đình lịch sử ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ viết có 1.025 từ.
Là một người được làm việc gần Bác trong nhiều năm, đồng chí Trường Chinh đã viết: "Về văn phong, cách nói và cách viết của Hồ Chủ tịch có những nét rất độc đáo: Nội dung khẳng khái, thấm thía, đi sâu vào tình cảm con người, chinh phục cả trái tim và khối óc của người ta. Hình thức sinh động, giản dị, dễ hiểu, giàu tính dân tộc và tính nhân dân. Người rất ghét văn chương sáo rỗng, nhạt nhẽo, rất ghét nói và viết dài dòng, khó hiểu, lung tung, lằng nhằng và kiên quyết phản đối dùng chữ nước ngoài không cần thiết".
Bác Hồ rất hay vận dụng ngôn ngữ và cách nói của quần chúng. Bác thường khuyên: "Chúng ta muốn tuyên truyền quần chúng, phải học cách nói của quần chúng, mới lọt tai quần chúng. Vì cách nói của quần chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát, rất thiết thực mà lại giản đơn.
Chúng ta đều biết, những thành ngữ, ca dao, tục ngữ vốn là sản phẩm của quần chúng lao động, là phương tiện biểu hiện tư tưởng, tình cảm, có từ rất lâu trong đời sống lao động của con người. Nó từ quần chúng và đi vào quần chúng rất dễ dàng, thấm thía. Chúng ta có thể dẫn ra đây một số câu của Bác: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống". "Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này, thế khác đều là dòng dõi của Tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc" (Thư gửi đồng bào Nam Bộ 5-1946). "Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách trốn tránh". (Sửa đổi lối làm việc). "Kéo bè, kéo cánh, bà con, bạn hữu không tài năng gì, thì cũng chức này chức nọ. Người có tài, có đức nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài". "Thứ nhất dân ghét các ông chủ tịch, các ông ủy viên vì cái tật ngông nghênh, cậy chức, cậy quyền. Người ta còn thì thào chỉ chỏ ông tỉnh trưởng kia vác ô tô đưa bà "tỉnh trưởng" đi chơi mát mỗi buổi chiều". (Sao cho được lòng dân). "Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta" (Thư gửi UBND các kỳ).
Những câu viết của Bác giản dị, sâu sắc và đi thẳng vào lòng người, khiến người đọc chỉ một lần đã nhớ.
Lần nào nói chuyện với các nhà báo, Bác cũng nhắc nhở, báo chí của ta còn nhiều bài viết dài dòng quá. Bác phê bình cái lối viết "rau muống" và còn "ham dùng chữ". Các ông viết báo nhà mình hay dùng chữ quá. Những chữ tiếng ta có mà không dùng, lại dùng cho được chữ kia. Ba tháng thì nói "tam cá nguyệt", xem xét thì nói "quan sát", máy bay thì nói "phi cơ", người đánh cá thì nói "ngư dân", nhà in lại in nhầm chữ ư thành u, thế là do bệnh dùng chữ mà người đánh cá hóa thành ngu dân!
Bác nhắc nhở những chữ mà tiếng ta có thì phải dùng tiếng ta. Nhưng đến nay, đọc các báo chúng ta vẫn còn thấy bệnh dùng chữ nước ngoài và hình như gần đây bệnh đó lại có xu hướng lan tràn hơn. Bác Hồ là người hết lòng yêu mến, quý trọng tiếng Việt và tin tưởng vào khả năng to lớn của tiếng Việt. Bác đã nói: "Tiếng nói là thứ của cải lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp".
Bác Hồ là người đã đóng góp lớn cho sự phong phú của tiếng Việt. Bác đã sáng tạo ra một số từ ngữ mới mà chúng ta đang quen dùng như: giặc đói, giặc dốt, óc bè phái, óc hẹp hòi, thói ba hoa, nghị quyết túi áo, báo cáo túi quần, bệnh quan liêu, tệ lãng phí, nạn tham nhũng, thói mệnh lệnh, óc địa phương, vùng trời, vùng biển, quân đội nhân dân, người đi trước rước người đi sau, người đi sau theo mau người đi trước, ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, các dân tộc anh em, các đảng bạn, các nước bầu bạn, miền Nam thành đồng Tổ quốc, đồng bào công giáo kính chúa yêu nước...
Nhà thơ Tố Hữu đã viết: "Văn chương của Hồ Chủ tịch đã in sâu lên thời đại chúng ta. Nó chung đúc đến độ tinh vi cái đẹp bình dị của văn chương vô sản. Nó kết hợp một cách diệu kỳ những tư tưởng khoa học với điệu cảm, cách nói dân tộc". Nhà văn hóa Hà Huy Giáp cũng viết: “Hồ Chủ tịch rất chú trọng cách viết. Người rất cẩn trọng ngay đến cách dùng một từ nhỏ, một dấu chấm câu, cách bố cục một bài viết. Hồ Chủ tịch là một nhà ngôn ngữ nghiêm khắc. Cũng như Lênin, Người dùng rất ít chữ, mà là những chữ đúng nhất, cần thiết nhất, để một viện sĩ hàn lâm đến người nông dân đều có thể hiểu được".
BÙI CÔNG BÍNH