Những tượng đài liệt sĩ bằng thơ

Dành cho người yêu thơ - Ngày đăng : 09:45, 24/07/2011

Trải dài theo thời gian qua các cuộc kháng chiến, dân tộc Việt Nam đã khắc vào sử vàng những trang hào hùng, oanh liệt. Bao người con của quê hương, đất nước đã dũng cảm hy sinh, cống hiến cả tuổi xanh cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Hình ảnh người anh hùng liệt sĩ, thương binh luôn được khắc họa trong thơ hiện đại bằng những vần thơ tràn đầy cảm phục, yêu thương...

Thật xúc động khi đọc được những vần thơ của Sóng Hồng khi nhà thơ viết về tấm gương hy sinh của một em nhỏ ngoài mặt trận: “Người ta ai cũng chỉ sống một lần/Em đã hiểu thế nào là sống cho ra sống/Giờ đây, trên mộ em/Ngày dệt nắng vàng, đêm trăng đan bóng/Chim rừng, gió núi sẽ ru cho em ngủ/Bốn mùa hoa nở, sực nức hương thơm”. Trước mộ đồng chí Hoàng Văn Thụ,  nhà thơ xúc động: “Nhớ những khi ấp ủ giữa lòng dân/Chia bát cơm khoai, bẻ đôi củ sắn/Nhớ những phen thoát vòng vây địch/Ngủ bờ ngủ bụi vượt mọi chông gai/Hôm nay viếng mộ anh/Bao ký ức của những ngày gian khổ dãi dầu/Đã tràn ngập lòng tôi trong giây phút”. Có những tình yêu đẹp vô cùng, tưởng chừng không có gì ngăn cách nổi: “Bảy năm về trước em mười bảy/Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng/Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa/Bữa thì em tới, bữa anh sang/Lối ta đi giữa hai sườn núi/Đôi ngọn nên làng gọi Núi Đôi/ Em vẫn đùa anh: sao khéo thế/Núi chồng núi vợ đứng song đôi” (Núi Đôi - Vũ Cao). Người trai ra đi, trở thành người chiến sĩ. Người con gái ở lại làng quê, trở thành người du kích. Họ vẫn ngóng chờ tin tức về nhau: “Đồng đội có nhau thường nhắc nhở/Trung du làng nước vẫn chờ mong/Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm/Em vẫn đi về những bến sông”. Nhưng ngày anh trở lại thăm làng, thăm Núi Đôi thì nhận được tin đau lòng: “Vừa tới cầu ao tin sét đánh/Giặc giết em rồi dưới gốc thông/Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa/Em sống trung thành, chết thủy chung”. Nhưng không vì thế mà buồn đau, người trai vẫn sáng ngời một niềm tin, niềm lạc quan cách mạng: “Ai viết tên em thành liệt sĩ/ Trong những hàng bia trắng giữa đồng/Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí/Một tấm lòng trong vạn tấm lòng/Anh đi bộ đội sao trên mũ/Mãi mãi là sao sáng dẫn đường/Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm". 

Đẹp và tự hào biết bao “dáng đứng Việt Nam”, dáng đứng của những con người “biết đi tới và làm nên thắng trận”. Đó là dáng đứng của Việt Nam đang ngày đêm đánh Mỹ, quyết giành lại độc lập, tự do! Người chiến sĩ hy sinh trong tư thế oai hùng: “Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất/Nhưng anh gượng đứng lên tỳ súng trên xác trực thăng/Và anh chết trong khi đang đứng bắn/Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng” (Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân). Đức tính khiêm nhường của người chiến sĩ đã tạc nên dáng đứng thế kỷ, dáng đứng của ngàn năm: “Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường/Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ/Anh là chiến sĩ Giải phóng quân!”.

Người chiến sĩ hy sinh để lại bao tiếc thương cho đồng đội. Bao kỷ niệm ùa về như vây quanh, như đang cùng người khuất trò chuyện: “Đất đắp mộ Hùng bom trộn lẫn/Cây trầm cháy dở thay nén nhang/Cây trầm cháy rồi hương cứ thơm/ Hùng ơi, mai gió mùa đông bắc/Võng bạt canh khuya lại nhớ Hùng/Những đêm hai đứa chung phiên gác/Bao gạo gối đầu, chăn đắp chung” (Nấm mộ và cây trầm - Nguyễn Đức Mậu). Hình ảnh người chiến sĩ hy sinh thật dũng cảm, gây xúc động mạnh mẽ: “Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù/Nhận cái chết cho đồng đội sống/Ngực chặn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng/Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi/Chết - hy sinh cho Tổ quốc - Hùng ơi/Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất/Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc/Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng”.

Người chiến sĩ được ví như cây trầm: lúc còn xanh tỏa đầy bóng mát, khi ngã xuống vẫn tỏa mùi hương cho đất trời: “Thơm rất xa gió thoảng hương trầm/ Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ/Sống tươi tốt một màu xanh bình dị/Thân hy sinh thơm đất thơm trời”.

Sự hy sinh của người chiến sĩ mở ra bao sự sống, sự bất tử của muôn đời. Màu hoa hồng thắm trên mộ anh là màu hoa của ngày chiến thắng: “Mộ anh trên đồi cao/Cánh hoa này em hái/Cành hoa này chị đơm/Cây bông hồng em ươm/Em trồng vào trước cửa/Mộ anh trên đồi cao/Hoa hồng nở và nở/Hương thơm bay và bay/(...) Trên mộ người cộng sản/Hoa hồng đỏ và đỏ/Như máu nở thành hoa” (Mộ anh hoa nở - Thanh Hải).

Cảm động làm sao khi chúng ta cùng nghe bài thơ của một người đồng đội viết về những đồng đội của mình mãi mãi ra đi ở lứa tuổi hai mươi: “Đò qua Thạch Hãn xin chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/Có tuổi hai mươi thành sóng nước/Vỗ yên bờ mãi mãi nghìn năm” (Lê Bá Đương).

Đất nước ta đi đến đâu cũng gặp nghĩa trang liệt sĩ. Đặc biệt, đất Quảng Trị nghĩa trang bạt ngàn mộ trắng. Một lần, Hải Bằng - đứng trước Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn đã thốt lên những lời thơ cảm động: “Có thể tôi chưa gặp/Từng gương mặt các anh/Nhưng giữa lòng con mắt/Vẫn giọt trời long lanh/ Nhìn các anh hôm nay/Khi núi ẩn lòng mây/Ánh sương rừng lấp lánh /Đeo cườm lên lá cây/…/Trường Sơn liền Đông - Tây/Trường Sơn dài Nam - Bắc/Tay xiết súng vào tay/Giữ cho tròn quả đất/Mây quanh ngày đổi thay/Hiện lên dáng anh hùng/Mây vến màn đỉnh núi/Các anh thành trời trong/Khắc từng tên các anh/Rõ tên làng tên đất/Quê nào cũng hương chanh/Gió vườn thơm ngào ngạt/Nghĩa trang thành nghĩa tình/Trường Sơn thành trường sinh/Giữa tấm bia liệt sĩ/Cánh sao trời lung linh”(Viếng Nghĩa trang Trường Sơn).

Cứ vào dịp 27-7, nhân dân  Quảng Trị tổ chức thả hoa và  lễ cầu siêu các anh hùng liệt sĩ bên sông Thạch Hãn tưởng nhớ những chiến sĩ đã hy sinh vì nước: “... Hoa thơm tỏa ngát sông thơm/Ru con ngủ yên lòng mẹ/Trái tim nghìn chàng lính trẻ/Bờ xôi ruộng mật quê hương/Như khúc tráng ca âm vang/Sử thi dòng sông một thuở/Muôn đời còn với nước non”(Sử thi dòng sông  - Xuân Mai).

Những vần thơ, những nén tâm nhang thắp lên tưởng nhớ bao anh hùng, bao liệt sĩ, thương binh đã hy sinh; đã đóng góp tuổi xanh cho ngày vui hòa bình, độc lập. Cuộc đời của các anh mãi mãi là những bài ca oai hùng cùng cất lên trong lòng mỗi người con đất nước.


NGUYỄN VĂN THANH(Quảng Trị)