Chỉ đạo quyết liệt một số nhiệm vụ trọng tâm, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

Tin tức - Ngày đăng : 07:56, 05/07/2012

Hải Dương online giới thiệu toàn văn báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, một số nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo, điều hành những tháng cuối năm 2012.

PHẦN THỨ NHẤT

Tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển KT-XH 6 tháng đầu năm


Thực hiện Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, UBND tỉnh đã chủ động và có nhiều biện pháp cụ thể, tích cực tập trung chỉ đạo. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ có thuận lợi song gặp rất nhiều khó khăn thách thức. Kinh tế thế giới phục hồi chậm do bất ổn chính trị và khủng hoảng nợ công ở nhiều quốc gia. Tình hình trong nước tiếp tục chịu tác động của suy giảm kinh tế từ những năm trước, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ để ổn định kinh tế vĩ mô, sức mua giảm, thị trường chứng khoán, bất động sản trầm lắng, việc tiếp cận vốn của các DN vẫn gặp nhiều khó khăn, sản xuất kinh doanh đình trệ…



Đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nguyễn Trọng Thừa trình bày báo cáo tình hình
phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp 6 tháng cuối năm 2012


Bằng sự cố gắng trong chỉ đạo điều hành của các cấp chính quyền, sự cố gắng của các doanh nghiệp và nhân dân, 6 tháng đầu năm 2012 kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng, lạm phát giảm. Lĩnh vực văn hóa, xã hội có chuyển biến tích cực trên một số mặt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng, quân sự địa phương tiếp tục được củng cố, tăng cường. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế đạt thấp, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều đạt thấp so với KH cả năm đề ra, thu ngân sách đạt thấp. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) ước tăng 5% so với cùng kỳ năm trước (KH cả năm tăng 9,5% – 10%) , trong đó khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm 3,1% (KH năm tăng 0,3%), công nghiệp – xây dựng tăng 4,9% (KH năm tăng 11 – 12%), dịch vụ tăng 10,4% (KH năm tăng 11,3 – 11,6%), thu ngân sách nội địa giảm 26,5% so với cùng kỳ năm trước. Đời sống một bộ phận người lao động không được hưởng lương gặp khó khăn.

A/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

I. Lĩnh vực kinh tế

1. Nông nghiệp, nông thôn

a/ Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản

6 tháng đầu năm, sản xuất nông nghiệp nói chung thuận lợi, phát triển ổn định. Giá trị sản xuất Nông, lâm nghiệp, thủy sản (giá CĐ 1994) ước đạt 2.526 tỷ đồng, bằng 57,5% KH năm, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị sản xuất giảm chủ yếu do sản lượng vải quả giảm, chỉ bằng 68% so với năm trước  (nếu loại trừ yếu tố giảm do vải quả thì GTSX nông nghiệp chỉ giảm 0,3%). Cụ thể:

- Diện tích gieo trồng lúa chiêm xuân đạt 63.616 ha, bằng 101% KH, giảm 28 ha so với năm trước. Tỷ lệ diện tích lúa lai, lúa chất lượng cao đạt 51% diện tích gieo trồng, tăng 9,6% so với năm trước. Năng suất lúa ước đạt 66 tạ/ha. Các vùng sản xuất lúa tập trung tiếp tục được nhân rộng . Hoàn thành quy hoạch vùng sản xuất rau, vải thiều an toàn trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 với quy mô 9.998 ha.

- Diện tích vụ Đông đạt 22.505 ha, đạt KH đề ra, tăng 129 ha so với vụ Đông năm trước. Nông sản được giá, giá trị sản xuất vụ Đông (giá thực tế) trên 1 ha gieo trồng đạt 87,8 triệu đồng/ha, tăng 3,1 triệu đồng/ha so với 2011 .

- Tình hình chăn nuôi tương đối ổn định, không có dịch bệnh lớn bùng phát . Chăn nuôi gia cầm phát triển khá. Diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 10.300 ha, tăng 1,3%, sản lượng ước đạt 28.128 tấn, tăng 1% so với cùng kỳ năm trước. Mô hình nuôi cá lồng tiếp tục được nhân rộng.

b. Xây dựng nông thôn mới

Chương trình xây dựng nông thôn mới tiếp tục được triển khai và đã đạt được kết quả bước đầu, một số xã đã đạt thêm được một số tiêu chí nông thôn mới . Công tác quy hoạch xây dựng nông thôn mới được triển khai thực hiện ở tất cả các xã trong tỉnh. Đối với 58 xã xây dựng nông thôn mới giai đoạn 1, đến nay có 32 xã đã được phê duyệt quy hoạch chung, 11 xã được phê duyệt quy hoạch chi tiết,  14 xã được phê duyệt đề án nông thôn mới. Năm 2012 nguồn vốn ngân sách TW, ngân sách tỉnh bố trí trực tiếp cho Chương trình xây dựng nông thôn mới 144 tỷ 707 triệu  đồng, trong đó vốn đầu tư XDCB 126,9 tỷ đồng tập trung cho các công trình GTNT, nước sạch vệ sinh nông thôn, kiên cố hóa kênh mương và một số công trình hạ tầng thiết yếu của các xã. Các dự án đầu tư hạ tầng đang được triển khai thực hiện

2.    Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, kế hoạch sản xuất đạt thấp, khối lượng tồn kho lớn, nhất là đối với ngành công nghiệp chế biến. 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2011. Một số sản phẩm duy trì được mức tăng cao như: vi mạch điện tử tăng 43,7%, máy fax tăng 31,9%, áo khoác người lớn tăng 28,5%, quần áo thể thao người lớn tăng 35,3%; bộ com lê tăng 23,7%; máy khâu các loại tăng 248,5%; dây điện dùng cho điện áp không quá 1kv tăng 61,6%; bộ dây dẫn điện dùng trong xe ô tô tăng 214,5%… Một số sản phẩm chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn giảm mạnh như: xi măng giảm 8%; Xe ô tô các loại giảm 39,6%; Điện sản xuất giảm 8,7%...Một số sản phẩm chủ yếu tồn kho lớn như: xe ô tô, xi măng, thép các loại,..

TTCN và làng nghề tiếp tục phát triển. Đã triển khai 03 đề án khuyến công quốc gia, hoàn chỉnh hồ sơ để phê duyệt 14 đề án khuyến công của tỉnh năm 2012.

3. Lĩnh vực dịch vụ, giá cả thị trường

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội 6 tháng đầu năm ước đạt 9.517,9 tỷ đồng, bằng 47,6% KH năm, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình lạm phát giảm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 6 tháng tăng bình quân 11,34% so với cùng kỳ năm trước, tăng 2,14% so với tháng 12 năm 2011. Công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường được tăng cường, đã kiểm tra 769 vụ, xử lý 715 vụ vi phạm về kinh doanh hàng lậu, hàng cấm, hàng giả,…với tổng giá trị tiền phạt và tiền hàng tịch thu 1 tỷ 120,9 triệu đồng.

Xuất khẩu duy trì được mức tăng khá, 6 tháng đầu năm giá trị hàng hóa xuất khẩu ước đạt 735 triệu 172 ngàn USD, bằng 49% KH năm, tăng 21,7% so với cùng kỳ năm trước . Giá trị hàng hóa nhập khẩu ước đạt  651 triệu USD, bằng 43,4% KH năm, giảm 5,7% so với cùng kỳ năm trước.

Dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển ổn định . Đã tăng cường quản lý đối với hoạt động kinh doanh Internet, thực hiện nghiêm quy định quản lý thuê bao di động trả trước. Triển khai cung cấp dịch vụ truyền hình cáp Saigontourrist trên địa bàn tỉnh.

Hoạt động của các tuyến xe buýt và mạng lưới taxi đã từng bước được chấn chỉnh. Hoạt động du lịch thu hút 1 triệu 350 ngàn lượt du khách, trong đó có 73.444 lượt khách quốc tế, tăng 3,6%, doanh thu du lịch ước đạt 465,7 tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2011.

4. Tài chính, tín dụng, ngân hàng

a/ Thu, chi ngân sách nhà nước

Công tác quản lý thu, chi ngân sách được quan tâm chỉ đạo, đã thực hiện nhiều biện pháp tăng cường quản lý thuế, truy thu thuế nợ đọng. Song do sản xuất bị đình trệ, thu ngân sách gặp rất nhiều khó khăn, đạt thấp so với dự toán năm và cùng kỳ năm trước. Tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm ước đạt 2.232 tỷ 600 triệu đồng, bằng 36% dự toán năm, giảm 2% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó thu nội địa 1.882 tỷ 600 triệu đồng, bằng 36% dự toán năm, giảm 26,5%. Hầu hết các khoản thu đều đạt thấp, nhất là thu từ khu vực DN có vốn ĐTNN, chỉ có 4/12 khoản thu đạt trên 50%, còn lại đều đạt thấp hơn 50% dự toán năm ,…

Ngân sách địa phương đã cố gắng đảm bảo được các khoản chi thường xuyên, nhất là chi đảm bảo an sinh xã hội. Tổng chi cân đối ngân sách địa phương 6 tháng ước thực hiện 3.826 tỷ 121 triệu đồng, đạt 62,1% dự toán năm, tăng 35,2% so với cùng kỳ năm trước.

b/ Hoạt động tín dụng, ngân hàng

Triển khai kịp thời các biện pháp theo chỉ đạo của Ngân hàng Trung ương . Tuy nhiên do khó khăn chung của nền kinh tế, nhiều DN phải phá sản hoặc dừng hoạt động, hoạt động tín dụng có xu hướng trầm lắng. Việc tiếp cận với vốn vay lãi suất thấp của các DN vẫn gặp nhiều khó khăn do các điều kiện vay vốn chưa được nới lỏng. Đến cuối tháng 6, tổng nguồn vốn huy động tại chỗ trên địa bàn ước đạt 27.080 tỷ đồng, tăng 10,4% (KH năm tăng 15 – 20%); tổng dư nợ ước đạt 27.640 tỷ đồng giảm 3,4% (KH năm tăng 15 – 17%) so cuối năm 2011; nợ xấu chiếm 2,35% tổng dư nợ. Đã tích cực mở rộng tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên như: cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa…Dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn ước đạt 12.000 tỷ đồng, chiếm 43,4% tổng dư nợ.

Tăng cường việc thanh tra, kiểm tra; xử lý các sai phạm trong lĩnh vực ngân hàng . Công tác thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục được triển khai, đạt kết quả tích cực .

5. Hoạt động đầu tư

Tổng vốn đầu tư xã hội 6 tháng đầu năm ước đạt 8.573 tỷ đồng, bằng 37,8% KH năm, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm trước.

5.1. Công tác quy hoạch và quản lý đô thị

Công tác quy hoạch có bước chuyển biến tích cực. Đã hoàn thành điều chỉnh quy hoạch tổng thể KT-XH của tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; quy hoạch sử dụng đất của tỉnh đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 – 2015 trình HĐND tỉnh. Cơ bản hoàn thành xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển một số ngành, lĩnh vực. Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng TP. Hải Dương và một số thị trấn, thị tứ . Phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN Phúc Điền mở rộng. Thực hiện xong việc rà soát quy hoạch xây dựng hạ tầng các khu đô thị, khu dân cư trên địa bàn tỉnh. Triển khai xây dựng Quy chế quản lý quy hoạch các công trình công cộng trên địa bàn tỉnh.

Công tác quản lý đô thị được tăng cường, đã tổ chức phân luồng giao thông tại một tuyến phố trên địa bàn TP. Hải Dương. Cơ bản hoàn thành công tác nghiệm thu cơ sở đối với khu đô thị mới phía Đông, khu du lịch sinh thái Hải Hà và các tuyến đường khu đô thị mới phía Tây TP. Hải Dương. Xây dựng xong quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc trên địa bàn thành phố Hải Dương.

5.2. Đầu tư XDCB (có báo cáo chi tiết riêng)

Thực hiện nghiêm Chỉ thị 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 25/CT-UBND ngày 12/12/2011 của Chủ tịch UBND tỉnh về tăng cường quản lý đầu tư từ nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc NSNN. Việc bố trí vốn đầu tư đã khắc phục rõ rệt tình trạng bố trí dàn trải, đã tập trung ưu tiên vốn cho các dự án, công trình trọng điểm của tỉnh, các dự án có khả năng hoàn thành trong năm 2012. Đã rà soát, xây dựng xong KH đầu tư từ nguồn vốn TPCP cho cả giai đoạn 2012 – 2015 và năm 2012. Triển khai một số dự án đầu tư hạ tầng quan trọng như: dự án nút giao lập thể với QL 5 tại Ngã ba hàng, dự án cầu Ràm,…Cơ bản hoàn thành các dự án đầu tư phục vụ công tác phòng chống lụt bão úng năm 2012.

Khối lượng vốn đầu tư XDCB do tỉnh quản lý 6 tháng ước thực hiện 409,6 tỷ đồng, vốn giải ngân đến hết tháng 6 ước đạt 485,7 tỷ đồng, bằng 54,8% KH vốn thanh toán đã giao cho các dự án.

5.3. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

6 tháng đầu năm đã thu hút 76,3 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, giảm hơn 3 lần cùng kỳ năm trước. Trong đó có 11 dự án đầu tư mới với vốn đăng ký 21,8 triệu USD, chủ yếu trong các lĩnh vực: chế tạo, cơ khí, lắp ráp. Vốn đầu tư thực hiện của các dự án ước đạt 212 triệu USD, tăng 48,9% so với cùng kỳ năm trước. Một số DN đang mở rộng sản xuất, tăng quy mô đầu tư như: Công ty may Phú Nguyên, Công ty Formostar, Shint BVT 

5.4. Đầu tư trong nước

6 tháng đầu năm đã chấp thuận cho 14 dự án đầu tư trong nước thuê đất sản xuất kinh doanh (bằng 15,7% so với cả năm 2011) với số vốn đầu tư đăng ký 548,7 tỷ đồng . Đã điều chỉnh dự án (gia hạn, chuyển nhượng) cho 28 dự án. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm cả về số lượng và quy mô vốn đăng ký. Cấp giấy chứng nhận ĐKKD thành mới cho 385 doanh nghiệp, điều chỉnh nội dung ĐKKD cho 393 doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký (kể cả bổ sung) là 1.760 tỷ 419,4 triệu đồng. Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động và giải thể trên 600 doanh nghiệp .

6. Hoạt động khoa học công nghệ, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường

Hoạt động KHCN đã tập trung ưu tiên phục vụ cho lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Chương trình xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi trường . Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất ở một số địa phương cho kết quả tích cực . Tiếp tục ứng dụng công nghệ sinh học xử lý rơm rạ sau thu hoạch thành phân bón hữu cơ. Tổ chức triển khai mô hình khung tại các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh.

Triển khai thực hiện Đề án: “Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai, khoáng sản  cho phát triển KT-XH”. Công tác quản lý đất đai có chuyển biến. Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất được tăng cường quản lý, đảm bảo theo quy định của pháp luật. Thực hiện dự án đo đạc, lập hồ sơ địa chính, đến nay đã hoàn thành ở 5/12 địa phương với 171/219 xã. Tiếp tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến nay đã cấp giấy chứng nhận QSD đất ở đô thị cho 91.000 hộ, đạt 89,1%, đất ở nông thôn 344.951 hộ, đạt 91,7%. Các huyện, TP, thị xã đang triển khai kế hoạch cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau chuyển đổi ruộng. 

 Đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm bảo vệ môi trường, quản lý việc khai thác đất đồi, khai thác đá, cát sỏi lòng sông trái phép và việc sản xuất gạch thủ công. Hoàn thành nghiệm thu các dự án xây dựng điểm quan trắc môi trường năm 2011. Tăng cường thực hiện việc kiểm soát ô nhiễm sau đánh giá tác động môi trường của các cơ sở, doanh nghiệp. Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường tại 160 đơn vị; phát hiện, xử lý 15 DN vi phạm. 

II- Lĩnh vực văn hoá, xã hội

1. Giáo dục - đào tạo

Hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học 2011 – 2012. Tỷ lệ đạt chuẩn về cơ sở vật chất, về đội ngũ giáo viên được nâng lên. Quy mô trường lớp được mở rộng. Giữ vững và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Duy trì thành tích là tỉnh đứng trong tốp đầu cả nước tại kỳ thi học sinh giỏi quốc gia với 67 em đoạt giải. Cơ sở vật chất trường, lớp tiếp tục được đầu tư theo hướng chuẩn hoá, đến nay toàn tỉnh có 380 trường đạt chuẩn quốc gia, tăng 32 trường so với năm học trước . Triển khai thực hiện các Đề án trong lĩnh vực giáo dục đạt kết quả bước đầu. Quyết định công nhận phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi ở 5 huyện, thành phố, thị xã, dự kiến hoàn thành ở các huyện còn lại và đề nghị TW công nhận tỉnh đạt phổ cập trong tháng 7/2012 . Thực hiện Đề án giáo dục bơi, đã có 11 trường xây dựng bể bơi và thực hiện giáo dục bơi cho 100% học sinh lớp khối lớp 4, lớp 5. Hoàn thành chuyển đổi 83 trường mầm non bán công sang công lập. Tổ chức tốt kỳ thi, xét tốt nghiệp các cấp học năm học 2011 – 2012, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bậc THPT đạt 99,86%, THPT hệ giáo dục thường xuyên đạt 99,46%.

2. Công tác Y tế, Dân số KHH gia đình

Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm, chất lượng được nâng lên. Các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện tiếp tục được quan tâm đầu tư xây dựng và mua sắm thiết bị, đến nay đã cơ bản hoàn thành. Đã thành lập và đưa Bệnh viện phụ sản vào hoạt động độc lập. Thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế đạt kết quả tích cực, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân giảm xuống còn 14,2% (năm 2011: 16%); có thêm 7 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế nâng tỷ lệ xã đạt chuẩn lên 89,8%. Hoạt động y tế dự phòng được tăng cường, không để dịch bệnh lớn và tử vong xảy ra trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên bệnh tay – chân – miệng ở trẻ em tiếp tục diễn biến phức tạp . Hệ thống các cơ sở y tế ngoài công lập tiếp tục phát triển, toàn tỉnh có 1.541 cơ sở, tăng 6,1% so cùng kỳ. Công tác quản lý đối với hoạt động y – dược tư nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường .

Thực hiện lồng ghép nhiều biện pháp về dân số kế hoạch hóa gia đình. Tỷ suất chênh lệch giới tính khi sinh giảm từ 124/100 xuống còn 123,6/100 (nam/nữ), tuy nhiên tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên vẫn có xu hướng tăng mạnh, chiếm 10,37% (cùng kỳ năm 2011 là 8,7%).

3. Lĩnh vực Thông tin truyền thông; Văn hoá – Thể dục Thể thao

Hoạt động thông tin truyền thông đã bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh, tập trung tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, nhà nước, của tỉnh như: tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết TW 4 (khóa XI), Chỉ thị 03/CT-TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, về xây dựng nông thôn mới,….Hoàn thành đưa vào khai thác hệ thống giao ban điện tử của tỉnh. 

Triển khai thực hiện Đề án xây dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã, phường, thị trấn, Đề án xây dựng đời sống văn hóa cơ sở giai đoạn 2011 - 2015. Đến nay toàn tỉnh có 935 làng, khu dân văn hóa, đạt tỷ lệ 65,3%, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Di tích lịch sử Côn Sơn - Kiếp Bạc của tỉnh đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt (đợt 2). Khảo sát, lập hồ sơ đề nghị 4 di tích xếp hạng quốc gia, 29 di tích xếp hạng cấp tỉnh năm 2012. Công tác xây dựng, cải tạo, nâng cấp nhà văn hóa thôn, KDC tiếp tục được quan tâm, đến nay toàn tỉnh đã có 1.377/1.431 (96,2%) nhà văn hoá thôn, KDC được hỗ trợ để xây mới, sửa chữa, nâng cấp, mua sắm trang thiết bị.

Duy trì phát triển phong trào thể dục, thể thao. Giữ vững thành tích ở một số bộ môn thành tích cao mũi nhọn. Đoàn VĐV của tỉnh tham gia thi đấu 3 giải quốc tế, 8 giải quốc gia giành được tổng số 33 huy chương (gồm 8 HCV, 11 HCB, 14 HCĐ), đặc biệt đã đạt giải vô địch môn bóng bàn đồng đội nam tại giải Vô địch bóng bàn toàn quốc báo Nhân dân năm 2012. Triển khai xây dựng đề án hỗ trợ cho vận động viên thể thao đạt thành tích cao.

4. Giải quyết việc làm và đảm bảo an sinh xã hội

6 tháng đầu năm đã giải quyết việc làm mới cho 15.150 lao động (trong đó xuất khẩu lao động được 1.520 người), đạt 47% kế hoạch năm; tư vấn việc làm, tư vấn nghề và chính sách chế độ lao động cho  9.060  người; giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho 1.868 lao động. Quản lý nhà nước về lao động được tăng cường, từng bước kiểm soát, quản lý chế độ, chính sách đối với người lao động tại các doanh nghiệp. Số vụ đình công giảm so với cùng kỳ năm trước, 6 tháng đầu năm xảy ra 02 vụ đình công, giảm 12 vụ. Tuyển sinh dạy nghề cho 12.399 người, trong đó dạy nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956 là 3.443 người.

Tiếp tục thực hiện tốt chính sách đối với người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo .  Cấp gần 149 ngàn thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo và các đối tượng bảo trợ xã hội. Thực hiện kịp thời các chính sách tín dụng đối với các đối tượng chính sách. Dư nợ cho vay các đối tượng chính sách ước đạt 2.090 tỷ đồng, tăng 15,8% so cùng kỳ năm trước . Đến nay tỉnh ta cơ bản hoàn thành thực hiện Chương trình hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định 167/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (năm 2012 đã cấp kinh phí hỗ trợ bổ sung cho 131 hộ nghèo với số tiền gần 1,2 tỷ đồng). Hoàn thành rà soát hộ nghèo năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo toàn toàn tỉnh 8,94%, hộ cận nghèo là 6,18%.

III. Công tác thanh tra, tư pháp; đảm bảo an ninh chính trị, trật tự ATXH và quân sự địa phương

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm, giải quyết kịp thời, hạn chế tình trạng khiếu tố vượt cấp. Tỷ lệ giải quyết đơn thư khiếu nại đạt 74%, đơn thư tố cáo đạt 76,4% số đơn thuộc thẩm quyền. Các cơ quan thanh tra đã triển khai 326 cuộc, đã có kết luận 115 cuộc. Qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo đã phát hiện sai phạm trong quản lý kinh tế trên 13 tỷ đồng, đã xử lý thu hồi 9 tỷ 876 triệu đồng, đạt tỷ lệ 76,7%.

Đẩy mạnh việc phổ biến tuyên truyền các văn bản pháp luật mới ban hành. Tổ chức thực hiện tốt việc tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992. Tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng và dịch vụ bán đấu giá . Duy trì tốt các hoạt động bổ trợ tư pháp và trợ giúp pháp lý.

Tình hình an ninh chính trị cơ bản được giữ vững. Đã phát hiện xảy ra 369 vụ phạm pháp hình sự, điều tra khám phá 281 vụ, đạt tỷ lệ 76,1% . Phát hiện, xử lý 158 vụ phạm tội về ma túy, 179 vụ cờ bạc và 12 vụ phạm tội về mại dâm. Công tác đảm bảo trật tự ATGT có bước chuyển biến, tuy nhiên tai nạn giao thông còn diễn biến phức tạp. Trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 106 vụ TNGT, làm chết 103 người, bị thương 70 người (giảm 6 vụ, 6 người chết, tăng 10 người bị thương) so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ đạo thực hiện có chất lượng các mặt công tác quốc phòng quân sự địa phương. Tổ chức thành công diễn tập chỉ huy cơ quan 1 bên, 1 cấp trên bản đồ và sa bàn Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và ban chỉ huy quân sự các huyện Kinh Môn, Tứ Kỳ, thị xã Chí Linh, trung đoàn 125 và diễn tập quốc phòng – an ninh tại Gia Lộc, TP. Hải Dương. Hoàn thành tốt chỉ tiêu giao quân đợt I năm 2012 với 1.600 chỉ tiêu.

IV. Công tác chỉ đạo điều hành, thực hiện cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, tiết kiệm chống lãng phí

Ngay từ đầu năm, căn cứ Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết HĐND tỉnh kỳ họp thứ 2 (khoá XV) và các nghị quyết của Chính phủ về điều hành kế hoạch và dự toán ngân sách năm 2012, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo các ngành, địa phương tổ chức thực hiện. Đã quyết liệt chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ trọng tâm như: tháo gỡ vướng mắc cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, phòng chống dịch bệnh, xây dựng nông thôn mới, triển khai các Đề án thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV ,…Lãnh đạo UBND tỉnh và các ngành đã duy trì nhiều buổi đối thoại trực tuyến để thông tin công khai, kịp thời về tình hình phát triển KT-XH và các giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch. Các nhiệm vụ đều được giao cụ thể về trách nhiệm cơ quan chủ trì, thời gian hoàn thành. Chất lượng điều hành của các cấp chính quyền có chuyển biến tích cực, kịp thời chỉ đạo, xử lý có kết quả nhiều vấn đề cấp bách. phát sinh. Tích cực làm việc với các Bộ, ngành TW để triển khai các dự án đầu tư hạ tầng quan trọng trên địa bàn tỉnh.

Đã triển khai kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2015 của tỉnh. Rà soát quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ban quản lý các KCN, các đơn vị sự nghiệp của Sở Giao thông Vận tải, Sở Giáo dục – Đào tạo, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch. Xây dựng Đề án thành lập một số đơn vị sự nghiệp như: Quỹ đầu tư phát triển tỉnh, Trung tâm xúc tiến Du lịch,…

Đưa vào hoạt động bộ phận tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa hiện đại” tại Thị xã Chí Linh. Sửa đổi, ban hành Quy định về quản lý công tác tổ chức và cán bộ ở các cơ quan hành chính thuộc tỉnh. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức tại một số cơ quan đơn vị. Thực hiện tốt kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, thực hiện đầy đủ chế độ thu hút, ưu đãi đối với cán bộ công chức viên chức.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến tuyên truyền về Luật phòng chống tham nhũng. Đã xem xét xử lý kỷ luật đối với một số cán bộ có sai phạm. Cơ bản hoàn thành báo cáo kết quả kê khai tài sản, thu nhập năm 2011 theo quy định.

B/ MỘT SỐ HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN

I. Hạn chế, yếu kém

Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, trong thực hiện nhiệm vụ KH 6 tháng đầu năm còn một số hạn chế, tồn tại lớn như sau:

- Sản xuất công nghiệp đình trệ, tăng trưởng thấp, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu không đạt KH đề ra. Thu ngân sách đạt rất thấp so với KH. Một số công trình dự án đầu tư trọng điểm triển khai chậm, không đạt tiến độ đề ra. Khó khăn vướng mắc trong việc đền bù, GPMB một số dự án chưa được giải quyết dứt điểm. Thu hút vốn FDI giảm mạnh, thị trường bất động sản trầm lắng, tiếp cận vốn vay ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Chương trình xây dựng nông thôn mới kết quả đạt thấp, chưa thực sự trở thành phong trào thi đua, còn thiếu chủ động, sáng tạo ở một số địa phương, tiến độ lập quy hoạch và đề án nông thôn mới còn chậm, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu. Tiến độ triển khai thực hiện một số Đề án về phát triển KT-XH còn chậm.

- Phát triển văn hóa – xã hội còn những bất cập. Chất lượng giáo dục ngoài công lập, chất lượng đào tạo nghề còn hạn chế. Chất lượng khám chữa bệnh nói chung, nhất là tuyến cơ sở chưa cao; tỷ lệ sinh con thứ ba và tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh còn cao; một số dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, đặc biệt là bệnh Tay chân miệng ở trẻ em. Công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm chưa tốt. ChÊt l­îng cña phong trµo x©y dùng lµng, KDC v¨n ho¸ ch­a thËt v÷ng ch¾c; kết quả giảm nghèo chưa bền vững. Một số vấn đề xã hội nổi cộm chưa được đẩy lùi như: tình trạng khiếu kiện đông người, kéo dài; tai nạn giao thông, việc khai thác đất đồi, cát sỏi lòng sông trái phép, tình trạng gây ô nhiễm môi trường,..Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp, đặc biệt là tội phạm nguy hiểm; tình hình an ninh ở một số địa bàn nông thôn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn đinh.

- Quản lý nhà nước một số lĩnh vực còn tồn tại hạn chế như: quản lý tài nguyên khoáng sản và môi trường, quản lý quy hoạch và xây dựng, quản lý tiền tệ, giá cả, ….Một số công trình xây dựng chất lượng không cao. Tình trạng lấn chiếm đất công, xây dựng nhà trên đất chuyển đổi, khai thác đất đồi, cát sỏi lòng sông trái phép, lấn chiếm lòng đường vỉa hè diễn ra khá phổ biến. Một số dự án thuê đất để SXKD, đầu tư KCN, cụm CN, khu dân cư, khu đô thị tiến độ thực hiện còn chậm gây lãng phí đất đai, nhiều DN nợ đọng thuế lớn, gây ô nhiễm môi trường chưa được xử lý kịp thời….Một số ngân hàng chưa thực sự phối hợp với DN để tháo gỡ khó khăn về vốn cho DN.

II. Nguyên nhân

1. Nguyên nhân khách quan

- Kinh tế thế giới và trong nước suy giảm.

- Chính phủ tiếp tục tập trung chỉ đạo chính sách tài chính tiền tệ thắt chặt và linh hoạt nhằm ưu tiên mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Một số chính sách, pháp luật của nhà nước còn bất cập trong thực hiện, nhất là chính sách về đất đai, đền bù GPMB.

- Sản xuất kinh doanh nói chung còn yếu, phát triển chưa vững chắc. Hầu hết các DN trên địa bàn tỉnh là DN nhỏ và vừa, tiềm lực tài chính yếu, trình độ quản trị, khả năng hấp thụ vốn thấp.

- Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu, dịch bệnh luôn tiềm ẩn và có nguy cơ bùng phát.

2.2. Nguyên nhân chủ quan

- Trong chỉ đạo và điều hành một số cơ quan, đơn vị còn thiếu tập trung, thiếu cụ thể và chưa quyết liệt; việc phân công công việc còn chưa rõ; việc phối kết hợp giữa một số ngành và giữa ngành với địa phương ở một số công việc còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Còn thiếu biện pháp quyết liệt, hiệu quả để cải thiện rõ rệt môi trường đầu tư kinh doanh.

- Trong tổ chức thực hiện còn thiếu kế hoạch, thiếu biện pháp cụ thể, không bám vào kế hoạch; thiếu kiểm tra, đôn đốc, đặc biệt là chưa có chế tài cụ thể xử lý đối với các tập thể, cá nhân vi phạm hoặc không hoàn thành nhiệm vụ.

- Một số ngành, địa phương chưa thật chủ động trong việc tham mưu đề xuất những biện pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giải quyết một số vụ việc phức tạp.
- Một bộ phận cán bộ ý thức, trách nhiệm không cao, năng lực trình độ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.


PHẦN THỨ HAI

Một số nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu trong chỉ đạo, điều hành những tháng cuối năm

Dự báo 6 tháng cuối năm Chính phủ tiếp tục có nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và hỗ trợ thị trường, lạm phát tiếp tục ổn định, lãi suất ngân hàng ổn định và xu hướng tiếp tục giảm. Song dự kiến 6 tháng cuối năm việc phát triển KT-XH vẫn còn nhiều khó khăn do việc thanh khoản (khả năng tiếp cận vốn của DN với ngân hàng) không cao, lượng hàng tồn kho của các DN còn rất lớn; thu ngân sách hụt nhiều so với KH, thu hút vốn đầu tư không cao, nhất là thu hút vốn đầu tư nước ngoài,...Do vậy rất khó có thể đạt được các chỉ tiêu kinh tế xã hội đầu năm đã đề ra.

Để hoàn thành các chỉ tiêu KH năm 2012 đề ra ở mức cao nhất, trong 6 tháng cuối năm các cấp chính quyền cần tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả những chủ trương, biện pháp đã đề ra ngay từ đầu năm, đồng thời tập trung chỉ đạo quyết liệt một số nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu sau:

I. Một số nhiệm vụ trọng tâm

1. Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết 13/NQ-CP của Chính phủ về việc tháo gỡ khó khăn cho DN và hỗ trợ thị trường.

2. Chuẩn bị đầy đủ điều kiện và chỉ đạo tốt nhất sản xuất vụ mùa và công tác phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn năm 2012.

3. Tập trung chỉ đạo quyết liệt các biện pháp về thu, chi ngân sách để cân đối ngân sách một cách tịch cực nhất.

4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của chính quyền các cấp. Tạo bước chuyển biến cơ bản trong công tác cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng, lãng phí. Tập trung xử lý dứt điểm một số vụ việc phức tạp kéo dài.

II. Một số giải pháp chủ yếu

1/ Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết số 13/NQ-CP của Chính Phủ và có cơ chế, quy định cụ thể về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Trong đó tập trung vào việc hạ lãi suất tín dụng cho vay, tăng cường tính thanh khoản để các DN được tiếp cận vốn, đặc biệt là hỗ trợ cho vay vào các lĩnh vực ưu tiên như: sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến nông sản thực phẩm, cho vay DN nhỏ và vừa.

     - Thực hiện kịp thời việc gia hạn, giảm, miễn một số loại thuế đối với các DN theo hướng dẫn của Bộ tài Chính.

    - Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính có liên quan tới hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các DN. Thực hiện công khai minh bạch trình tự, thủ tục, đối tượng thực hiện Nghị quyết 13/NQ-CP của Chính phủ. Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời các hành vi gây khó khăn về thủ tục hành chính cho các DN. Đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục tục hành chính. Định kỳ tổ chức đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp.

    - Thực hiện tốt các Chương trình xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại trọng điểm năm 2012. Hỗ trợ các DN thực hiện Chương trình đưa hàng Việt Nam về nông thôn, trong đó tập trung vào các chợ truyền thống. Tăng cường hoạt động thông tin, dự báo thị trường giúp các DN nắm bắt nhanh diễn biến thị trường để điều chỉnh hoạt động SXKD. Chuẩn bị điều kiện để tổ chức tốt hội chợ thương mại – nông nghiệp tại TP. Hải Dương.

- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, bảo đảm chất lượng, giá cả các mặt hàng thiết yếu như: sữa trẻ em, thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật,…Kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động của các cơ sở kinh doanh ga, xăng dầu.

2/ Chuẩn bị tốt điều kiện để triển khai sản xuất lúa vụ Mùa năm 2012. Làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm và thủy sản. Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các Đề án trong lĩnh vực nông nghiệp được phê duyệt, trong đó tập trung vào việc hỗ trợ mở rộng các mô hình sản xuất tập trung, hỗ trợ tiêu thụ nông sản,.....Có chính sách để đẩy mạnh thu hút các DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tốt công tác phòng chống lụt bão, úng và tìm kiếm cứu nạn năm 2012.Triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ để bảo vệ đất trồng lúa theo Nghị định số 42/2012/NĐ-CP của Chính phủ. 

Hoàn thành phê duyệt quy hoạch nông thôn mới và đề án nông thôn mới ở 58 xã giai đoạn I. Huy động, lồng ghép từ các nguồn vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn trên nguyên tắc lựa chọn các dự án cấp thiết, có khả năng hoàn thành trong năm 2012 - 2013 phù hợp với địa bàn từng xã, phát huy tối đa hiệu quả vốn đầu tư. Tổ chức thực hiện tốt cơ chế hỗ trợ bằng xi măng của tỉnh đối với các địa phương trong xây dựng đường GTNT. Sơ kết rút kinh nghiệm và đề ra biện pháp cụ thể để thực hiện hoàn thành tốt Chương trình xây dựng nông thôn mới.

3/ Đẩy nhanh tiến độ lập các quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH các huyện, thành phố; các quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực. Đôn đốc hoàn thành điều chỉnh quy hoạch chi tiết các KCN Lai Cách, Đại An (điều chỉnh lần 2), Cẩm Điền – Lương Điền, Cộng Hòa, Lai Vu, quy hoạch chi tiết khu Côn Sơn - Kiếp Bạc. Tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch được phê duyệt.

- Quyết liệt chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng cho các dự án, nhất là các dự án trọng điểm của tỉnh như: dự án Nhiệt điện Hải Dương, dự án nút giao lập thể Quốc lộ 5 tại Ngã Ba hàng, dự án khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc, dự án Cầu Chanh, dự án cầu Ràm, dự án May Tinh Lợi, dự án dệt Pacific,...và một số dự án phức tạp kéo dài. Xác định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương, các ngành trong công tác GPMB. Có biện pháp kiên quyết (kể cả biện pháp hỗ trợ thi công) đối với các trường hợp cố tình cản trở GPMB trái quy định của pháp luật.

- Kiểm tra và có biện pháp xử lý cụ thể đối với một số dự án thuê đất, dự án đầu tư xây dựng khu CN, khu dân cư, khu đô thị chậm triển khai, để đất hoang hóa gây lãng phí đất đai. Tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm tồn tại ở khu CN Kenmark.

- Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án. Rà soát, điều chỉnh tập trung vốn cho các dự án đầu tư có khả năng hoàn thành trong năm 2012 và các dự án trọng điểm của tỉnh.

- Tăng cường đôn đốc, hướng dẫn việc giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách, vốn trái phiếu chính phủ, vốn Chương trình MTQG; giải ngân nhanh vốn vay tín dụng ưu đãi đối với các dự án đầu tư kiên cố hóa kênh mương, phát triển GTNT, thủy lợi, hạ tầng nuôi trồng thủy sản và làng nghề. Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để giải ngân và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của các dự án ODA, vốn FDI.

- Tăng cường công tác quản lý xây dựng đô thị. Tiếp tục hoàn thiện nghiệm thu cơ sở đối với khu đô thị mới phía Đông và khu du lịch sinh thái Hải Hà và các tuyến đường khu đô thị mới phía Tây TP. Hải Dương. Ban hành và thực hiện quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc trên địa bàn thành phố Hải Dương.
 4/ Chủ động cân đối ngân sách năm 2012 một cách tích cực nhất. Rà soát tất cả các lĩnh vực, thống kê các đơn vị còn nợ thuế, quyết liệt thực hiện các biện pháp để truy thu tồn đọng thuế, nhất là các DN nợ lớn, nợ kéo dài, các DN đầu tư mở rộng SXKD.

Thực hiện tiết kiệm chi ngay 10% chi thường xuyên 6 tháng cuối năm (ngoài khoản chi cho con người) ở tất cả các đơn vị thụ hưởng ngân sách. Tạm dừng không bổ sung kinh phí cho các nội dung phát sinh ngoài dự toán đã duyệt. Tạm dừng phân bổ các khoản chi thường xuyên chưa phân bổ chi tiết; tạm dừng chưa thanh toán một số dự án đầu tư từ nguồn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và nguồn vốn đầu tư XDCB tập trung ở tất cả các cấp ngân sách. Phấn đấu đảm bảo các khoản chi cho con người và chi thực hiện chính sách an sinh xã hội.

Tiếp tục rà soát và dự báo sát mức giảm thu ngân sách do tác động của suy giảm kinh tế và do thực hiện gia hạn, miễn, giảm một số khoản thu theo Nghị quyết 13/NQ-CP của Chính phủ, trên cơ sở đó đề nghị Trung ương hỗ trợ, đồng thời có phương án cụ thể điều chỉnh giảm một số khoản chi khác trình HĐND tỉnh phê duyệt đảm bảo cân đối được ngân sách.

5/ Chuẩn bị tốt các điều kiện cho kỳ thi tuyển sinh vào các trường Đại học, cao đẳng và THCN, các trường THPT trên địa bàn tỉnh năm học 2012 – 2013. Thực hiện chuyển đổi các trường mầm non bán công sang công lập xong trong năm 2012. Thực hiện chuyển đổi một số trường THPT bán công sang công lập. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non trong toàn tỉnh. Đẩy mạnh xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các cơ sở đào tạo nghề.

- Thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, chủ động phòng chống các dịch bệnh có thể xảy ra. Tổ chức tốt Lễ phát động quốc gia phong trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân” tại huyện Nam Sách. Thực hiện tốt các biện pháp kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các cơ sở y dược tư nhân. Đẩy mạnh thực hiện các biện pháp giáo dục truyền thống lồng ghép với dịch vụ KHHGĐ phấn đấu giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 và tỷ suất chênh lệch giới tính khi sinh.

- Xây dựng chương trình, chuyên mục cụ thể trên các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền kịp thời việc triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW 3, TW 4 (khóa XI), các chủ trương chính sách lớn của Đảng và tỉnh. Phát huy hiệu quả cổng thông tin điện tử của các Sở, ngành.

- Tiếp tục chỉ đạo việc chuẩn bị lực lượng vận động viên, huấn luyện viên tham dự Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VII vào năm 2014 đạt kết quả tốt nhất. Xây dựng mô hình điểm về du lịch cộng đồng tại Đảo Cò, phát triển khu du lịch Côn Sơn - Kiếp Bạc. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hoá, thể thao, du lịch.

- Tổng kết, nghiệm thu các dự án, đề tài KHCN thực hiện năm 2011 đã kết thúc. Đẩy mạnh ứng dụng kết quả các đề tài, dự án đã nghiệm thu vào hoạt động thực tiễn. Nâng cao hiệu quả quản lý công nghệ đối với các dự án đầu tư.

6/ Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về lao động tại các doanh nghiệp. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật lao động. Quan tâm giải quyết tốt chính sách đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo và các chính sách xã hội khác. Tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 65 năm ngày thương binh liệt sỹ. Hoàn thành việc tu sửa Nhà tưởng niệm nghĩa trang Trường Sơn và nghĩa trang Đường 9 của tỉnh. Tăng cường chỉ đạo công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo nghề, nhất là dạy nghề cho lao động nông thôn. Tích cực triển khai chính sách tín dụng đối với các đối tượng chính sách, tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.

7/ Tăng cường quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn nhiều sai phạm, nhất là công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản. Kiểm tra, xử lý nghiêm đối với hoạt động đốt lò gạch thủ công, hoạt động khai thác đất đồi, lập bến bãi, khai thác cát sỏi lòng sông trái phép. Khẩn trương chỉ đạo việc lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 – 2015 đối với cấp huyện, cấp xã. Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất ở cho các hộ, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp sau chuyển đổi ruộng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo và thờ tự. Chỉ đạo xử lý các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đôn đốc việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại các khu công nghiệp, xây dựng các công trình cấp nước hợp vệ sinh nông thôn. Hoàn thành các bãi chôn lấp rác ở khu vực nông thôn đã triển khai năm 2011.

8/ Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Nâng cao chất lượng các hoạt động bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý. Đôn đốc việc thực hiện KH xây dựng văn bản QPPL năm 2012 đã được phê duyệt.

- Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến và triển khai thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo. Tập trung rà soát, xử lý các vụ việc khiếu nại, tố cáo còn tồn đọng, phức tạp, kéo dài, nhất là vụ khiếu kiện đông người ở xã Lai Vu (Kim Thành), xã Ứng Hòe (Ninh Giang).

- Tiếp tục xây dựng và củng cố lực lượng công an xã, lực lượng bảo vệ dân phố. Thực hiện tốt Đề án “Làng an toàn, khu dân cư an toàn; cơ quan, doanh nghiệp an toàn về ANTT” trên địa bàn tỉnh. Tấn công trấn áp mạnh các loại tội phạm hình sự. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả tuyên truyền về công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Tăng cường công tác quản lý vận tải và đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe; thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ kết cấu công trình giao thông nhằm hạn chế, đẩy lùi tai nạn giao trên địa bàn tỉnh.

- Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng quân sự địa phương năm 2012. Tổ chức tốt diễn tập khu vực phòng thủ huyện Thanh Miện, TP.Hải Dương và Sở Giao thông Vận tải. Thực hiện kịp thời chính sách đối với đối tượng trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975 theo Quyết định 62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Chuẩn bị tốt điều kiện cho lễ giao quân đợt 2 năm 2012.

9/ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của các cấp chính quyền. Đề cao, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tác phong lề lối làm việc, trong việc tiết kiệm chi tiêu công, sử dụng tài sản công, lãng phí trong đầu tư XDCB, mua sắm thiết bị, thiếu trách nhiệm để xảy ra vụ việc phức tạp,...Rà soát thủ tục hành chính, thực hiện công khai hóa các thủ tục hành chính tại các cơ quan hành chính nhà nước.

Đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng gắn với thực hiện Chỉ thị 03/CT-TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ việc tham nhũng được phát hiện.

Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt các Đề án thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo; chủ động cung cấp thông tin và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí, truyền thông để đảm bảo công khai, minh bạch, đăng tải kịp thời các thông tin về tình hình kinh tế - xã hội và các giải pháp chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp; tạo sự đồng thuận của nhân dân.

10/ Từng ngành, từng địa phương chủ động rà soát các nhiệm vụ được giao, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm và có giải pháp cụ thể, tăng cường việc chỉ đạo và đôn đốc kiểm tra quyết tâm phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất nhiệm vụ kế hoạch năm 2012 đã đề ra. Thực hiện tốt việc xây dựng kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 theo Chỉ thị 19/CT-TTg ngày 18/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ.