Nhật Bản luôn là thị trường ưu tiên xúc tiến đầu tư

Kinh tế - Ngày đăng : 14:10, 01/10/2013

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhật Bản hiện là nhàđầu tư nước ngoài lớn nhất ở Việt Nam, chiếm 15% tổng vốn FDI đăng ký vàoViệt Nam.

Hoạt động sản xuất của Công ty Mabuchi Motor Việt Nam (100% vốn đầu tư Nhật Bản) ở Khu công nghiêp Biên Hòa 2 (Đồng Nai).
Ảnh: Danh Lam/TTXVN


Sau 40 năm kể từ ngày chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ kinhtế Việt Nam-Nhật Bản đã có những bước phát triển vượt bậc, trong đó phải kể đếnthành tựu trong thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam.

Nhân dịp này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Trung đã trả lờiphỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam về các vấn đề nhằm tăng cường hơn nữa mốiquan hệ kinh tế giữa hai nước cũng như các giải pháp để đón đầu làn sóng đầu tưcủa Nhật Bản đang có xu hướng dịch chuyển vào khu vực Đông Nam Á, trong đó cóViệt Nam.

Dưới đây là nội dung cuộc trả lời phỏng vấn:

- Ông có thể đánh giá khái quát về tình hình thu hút FDI của Nhật Bảntrong thời gian qua?

Thứ trưởng Nguyễn Văn Trung: Tính đến nay Nhật Bản đã có 2 .047 dự án FDIcòn hiệu lực ở Việt Nam với tổng vốn đăng ký 33,4 tỷ USD. Nhật Bản hiện là nhàđầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, chiếm tới 15% tổng vốn FDI đăng ký vàoViệt Nam.

Phần lớn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam là trong lĩnh vực công nghiệp chếbiến chế tạo (chiếm 83,7% tổng đầu tư của Nhật Bản và chiếm 24% tổng vốn đầu tưnước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo), đã giúp Việt Nam pháttriển các ngành công nghiệp, phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa củaViệt Nam.

Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam có xu hướng gia tăng trong một vài năm gần đây.Nếu như năm 2010, Nhật Bản chỉ có 144 dự án với tổng vốn đầu tư 2,37 tỷ USD vàoViệt Nam thì sang năm 2011 con số này là 227 dự án và vốn đầu tư 2,6 tỷ USD,tăng 9,7%.

Năm 2012 là 317 dự án, vốn đầu tư 5,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần so với năm2011. Trong 9 tháng năm 2013 đầu tư của Nhật Bản vẫn tiếp tục giữ vị trí dẫn đầuvới 210 dự án và 4,7 tỷ USD vốn đăng ký.

- Có ý kiến cho rằng, Việt Nam chưa tận dụng được những cơ hội do làn sóngFDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong những năm qua, quan điểm của ông về vấn đềnày như thế nào?

Thứ trưởng Nguyễn Văn Trung: Theo tôi, quan điểm trên chưa hoàn toànchính xác. Như đã trình bày ở trên, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đang có xuhướng tăng trong những năm gần đây. Đặc biệt, sau năm 2011 do chịu ảnh hưởng củathảm họa thiên nhiên và sự lên giá của đồng yen, các nhà đầu tư Nhật Bản đã ồ ạtđầu tư ra nước ngoài trong đó có Việt Nam.

Con số đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam năm 2012 đã thể hiện điều này với 5,6tỷ USD vốn đầu tư, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2011 và cao nhất kể từ khi NhậtBản có hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

Để đón nhận làn sóng đầu tư của Nhật Bản, trong thời gian qua Việt Nam đã thựchiện rất nhiều các hoạt động, chương trình xúc tiến đầu tư để quảng bá môitrường đầu tư của Việt Nam. Trong đó, Nhật Bản luôn là thị trường ưu tiên củacác hoạt động xúc tiến đầu tư.

Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã thực hiện nhiều hoạt động để tháogỡ các khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư Nhật Bản trong quá trình đầu tư kinhdoanh tại Việt Nam như Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản (phối hợp với các doanhnghiệp Nhật Bản để tháo gỡ các vướng mắc về luật pháp, chính sách. Hiện Sángkiến này đang triển khai giai đoạn 5) , hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp Nhậtvùng Ichi.

Bộ cũng đang xúc tiến việc thành lập “Saitama Desk” để hỗ trợ các doanhnghiệp vùng Saitama. Các nhà đầu tư Nhật Bản đều đánh giá đây là những công cụhỗ trợ rất tích cực và có hiệu quả cao cho các nhà đầu tư Nhật Bản.

Tuy nhiên, nếu xét theo mong muốn của Việt Nam và tiềm năng của hai bên thì đầutư của Nhật Bản vào Việt Nam vẫn chưa tương xứng và chúng ta cũng chưa tận dụngđược hết những hiệu quả mà dòng vốn này mang lại.

Một trong những nguyên nhân đó chính là sự phát triển của ngành công nghiệphỗ trợ của Việt Nam còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của các dự án FDINhật Bản đặc biệt là các dự án lớn trong các lĩnh vực như sản xuất ôtô, xe máy,điện tử...

Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác là hệ thống cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lựccủa Việt Nam cũng chưa đáp ứng được yêu cầu để thu hút và phát huy hết hiệu quảcủa các dự án đầu tư của Nhật Bản.

- Ngành công nghiệp phụ trợ yếu, tỷ lệ nội địa hóa thấp đang làm mất dần lợithế cạnh tranh thu hút FDI của Nhật Bản so với các nước trong khu vực như TháiLan, Malaysia, Indonesia? Theo ông cần có giải pháp gì để khắc phục hạn chế nêutrên?

Thứ trưởng Nguyễn Văn Trung: Đây đúng là một trong những điểm yếu của môitrường đầu tư Việt Nam so với các nước trong khu vực. Để tăng cường khả năngcạnh tranh và tiếp tục thu hút FDI nói chung và FDI từ Nhật Bản nói riêng thìviệc khắc phục các vấn đề này đóng vai trò quan trọng.

Để cải thiện vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số1043/QĐ-TTg ngày 1/7/2013 phê duyệt Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Namtrong khuôn khổ hợp tác Việt Nam-Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

Theo đó, 6 ngành công nghiệp được xác định cần tập trung phát triển, gồm điệntử, chế biến nông, thủy sản; máy nông nghiệp; môi trường và tiết kiệm nănglượng; sản xuất ô tô và phụ tùng ôtô và đóng tàu. Định hướng đến năm 2020 sẽtăng cường năng lực sản xuất của sáu ngành được lựa chọn, đồng thời tập trungphát triển công nghiệp hỗ trợ cho sáu ngành này gắn với chuyển giao công nghiệp,đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Một loạt các giải pháp cũng đã được đề ravà giao cho các bộ, ngành triển khai thực hiện.

Về các giải pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ nói chung, Bộ Kế hoạch Đầutư đã kiến nghị Chính phủ và đã được Chính phủ phê duyệt tại Nghị quyết số103/NQ – CP ngày 29/8/2013 về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng vàquản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới .

Trước mắt, Bộ thực hiện ngay việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luậtmới thay thế Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24 tháng 02 năm 2011 về chínhsách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ theo hướng quy định cụ thể, chitiết ngành, sản phẩm thuộc công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung vào một sốngành, sản phẩm trọng điểm; quy định các tiêu chí xác định ngành, sản phẩm đượchưởng ưu đãi theo diện công nghiệp hỗ trợ theo hướng đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu,minh bạch

Bộ cũng nghiên cứu, nâng mức ưu đãi đủ sức hấp dẫn các dự án đầu tư tronglĩnh vực công nghiệp hỗ trợ theo danh mục lĩnh vực và sản phẩm công nghiệp hỗtrợ do Chính phủ ban hành, cũng như các dự án sử dụng nhiều nguồn cung cấp vậttư, nguyên liệu,... từ thị trường nội địa.

Về lâu dài, Bộ nghiên cứu, xây dựng Luật khuyến khích và phát triển công nghiệphỗ trợ.

- Việt Nam thu hút FDI từ Nhật Bản chủ yếu là nhân công giá rẻ, nhưng lợi thếnày là không bền vững và cũng đang mất dần so với các nước trong khu vực ĐôngNam Á (Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Malaysia,...), quan điểm của ông về vấnđề này?

Thứ trưởng Nguyễn Văn Trung: Đúng là lợi thế nhân công giá rẻ của ViệtNam là không bền vững và cũng đang giảm dần trong bối cảnh lương cơ bản liên tụctăng trong những năm vừa qua.

Tuy nhiên, hiện nay bên cạnh chi phí nhân công thì các doanh nghiệp của NhậtBản cũng đang rất quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực. Do đó, trong thời giantới, để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các quốc gia trong khuvực, chiến lược của Việt Nam sẽ là tập trung để nâng cao chất lượng nguồn nhânlực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của các doanhnghiệp đầu tư nước ngoài.

Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt chiến lược phát triển nhân lực Việt Namthời kỳ 2011-2020, trong đó, xác định mục tiêu đến năm 2015 sẽ có 55% và năm2020 sẽ có 70% lao động qua đào tạo; đến năm 2020 xây dựng được 4 trường đại họcvà 10 trường đào tạo nghề đẳng cấp quốc tế.

Chiến lược này cũng đã đề ra một loạt các giải pháp để đạt được các mục tiêunêu trên. Tôi tin tưởng, rằng nếu các ngành, các cấp cùng quyết tâm thực hiệncác giải pháp này một cách triệt để thì chất lượng nguồn nhân lực của Việt Namsẽ được cải thiện, qua đó tăng cường năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong thuhút đầu tư nước ngoài.

- Nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho rằng, môi trường đầu tư của Việt Nam đã cónhững cải thiện nhưng vẫn chưa nhiều. Đây vẫn là điểm yếu chính trong thu hútđầu tư nước ngoài. Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có những giải phápnào để cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư nói chung và đầu tư củaNhật Bản nói riêng?

Thứ trưởng Nguyễn Văn Trung: Các giải pháp để cải thiện môi trường đầu tưđã được Bộ Kế hoạch Đầu tư trình Chính phủ thông qua tại Nghị quyết của Chínhphủ số 103/NQ-CP ngày 29/8/2013 về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụngvà quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.

Theo đó một số giải pháp cụ thể là hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sáchliên quan đến đầu tư theo hướng nhất quán, công khai, minh bạch, có tính dự báo,tạo thuận lợi cho nhà đầu tư và có tính cạnh tranh so với các nước trong khuvực; điều chỉnh một số nguyên tắc quản lý và phân cấp đầu tư nhằm phát huy tínhnăng động, sáng tạo, chịu trách nhiệm của địa phương, đồng thời đảm bảo quản lýthống nhất của trung ương.

Hoạt động xúc tiến đầu tư được đổi mới theo hướng gắn với mục tiêu, nhiệm vụphát triển kinh tế-xã hội quốc gia, đồng thời có sự điều phối chung thống nhấtcủa Trung ương về nội dung, thời gian, địa điểm, được thực hiện theo kế hoạch vàtheo định hướng thu hút đầu tư nước ngoài; tăng cường công tác kiểm tra, giámsát hoạt động đầu tư.

Mặt khác, tăng cường đối thoại giữa các cơ quan của Chính phủ với các doanhnghiệp FDI nói chung và doanh nghiệp của Nhật Bản nói riêng nhằm nắm bắt các khókhăn, vướng mắc của doanh nghiệp.

Cùng với đó, Bộ sẽ nhanh chóng giải quyết các khó khăn, vướng mắc, đảm bảocác doanh nghiệp hoạt động bình thường và có hiệu quả. Ngoài ra, Chính phủ cầntiếp tục thực hiện các biện pháp để ổn định kinh tế vĩ mô nhằm tạo lập môitrường đầu tư kinh doanh ổn định và lành mạnh cho các doanh nghiệp đầu tư nướcngoài.

Quốc Huy (TTXVN)