Ai là tác giả thực sự của Dược Sơn?

Di tích - Ngày đăng : 07:43, 16/09/2016

Dược Sơn thuộc xã Hưng Đạo (Chí Linh), là nhánh phía nam của dãy núi Rồng.


Trên một vùng bình địa tiến thẳng ra sông Thương  ấy, có vườn thảo dược cổ (còn gọi là Dược Lĩnh cổ viên). Quanh chân núi cư dân quần tụ từ nhiều đời lập nên ngôi làng cổ, góp công trồng cây thuốc ở đó nên cũng mang tên là làng Dược Sơn.

Sử chép rằng sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất (năm 1258), Hưng Đạo Vương chọn Vạn Kiếp làm đại bản doanh. Theo truyền thuyết, một đêm Hưng Đạo Vương mơ thấy một vị thần đem giống cây thuốc đến tặng. Chỉ hôm sau trên đường về phủ đệ, Hưng Đạo Vương bỗng thấy hai bên đường có những cây giống như cây thuốc mà thần đã ban, bèn sai Phạm Ngũ Lão đem về trồng ở Dược Sơn, hái lá làm thuốc đắp vết thương cho binh sĩ. Quả nhiên vết thương mau lành một cách lạ thường. Từ đó, núi cây thuốc ấy được gọi là Dược Sơn.

Trước đó, chưa sử sách nào ghi chép về một vườn thuốc khác nên có thể khẳng định Dược Sơn chính là vườn thuốc có sớm nhất ở nước ta.

Theo sử liệu, với tài năng bẩm sinh và chí hướng vốn có của mình, lại được đích thân Hưng Đạo Vương rèn cặp, Phạm Ngũ Lão mau chóng trở thành một trong những vị tướng xuất sắc trong cả hai lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông. Ông được vua Trần phong hàm “Hạ phẩm Phụng ngự”. Sau này, khi phò tá ba đời vua Trần, ông còn liên tiếp lập nhiều chiến công, nhiều lần đánh dẹp quân Ai Lao và quân Chiêm Thành cũng như các tù trưởng phản loạn nơi biên giới. Như vậy, suốt trong 2 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Phạm Ngũ Lão hết đánh Bắc lại dẹp Đông, một vị tư lệnh không thể thiếu trong các trận mạc từ Bắc chí Nam, chắc không có thì giờ để trồng và chăm sóc Dược Sơn. Vậy người trực tiếp gây dựng Dược Sơn là ai?

Hiện đã có cơ sở để tin rằng tác giả thực sự của vườn thuốc Dược Sơn không phải là Phạm Ngũ Lão. Bằng cứ đầu tiên là tại đền Phù Ủng ở Thủ đô Hà Nội, nơi thờ vọng Phạm Ngũ Lão còn khắc đôi câu đối cổ ca ngợi tài đức và sự nghiệp kỳ vĩ của ông. Tạm dịch câu đối như sau: “Văn thơ thao lược, muôn thuở ngợi hùng tài, lời răn khắc đá, biển sông ca vịnh/Nguyên - Mông, Chiêm - Lao, một thời đều úy phục, triều Trần ghi công, sử Việt lưu danh”. Câu đối thường tóm tắt đầy đủ công trạng nhưng không thấy nhắc tới công trồng cây thuốc và chữa bệnh nếu là của ông.

Có thể Anh Nguyên quận chúa mới là chủ nhân thực sự của Dược Sơn. Bà là người con gái thứ 2 của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Vì Phạm Ngũ Lão có nhiều công trạng nên ông được Hưng Đạo Vương ưu ái gả con gái cho. Điều này trái với “luật nội tộc” trong vương triều Trần. Để cho thấu tình đạt lý, Hưng Đạo Vương đã giáng con gái Anh Nguyên xuống làm con nuôi.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Vạn Kiếp là vùng rừng núi rậm rạp, lam sơn chướng khí. Quân sĩ nhà Trần dễ bị thương vong vì bệnh tật và thương tích trong chiến đấu. Được giao cho lập vườn thuốc chữa bệnh cho binh sĩ, Phạm Ngũ Lão có thể đã giao lại cho chính phu nhân của mình. Do nhập thân vào trọng trách đó, bà lấy lại tên hiệu là Đại Hoàng (Đại Hoàng quận chúa). Đại hoàng là vị thuốc có màu vàng và là một “đầu vị” quan trọng của các thang thuốc Nam thời chiến. Hiện ở núi Dược Sơn vẫn còn dấu vết địa điểm của “Đàm Hoa Vân Dược” tương truyền là “nhà khám, chữa bệnh và cấp thuốc” cho binh sĩ xưa. Không có câu đối nhưng công trạng của công chúa được ghi nhận ở chỗ bà được tạc tượng thờ ở đền Kiếp Bạc, gần với tượng của Hưng Đạo Vương và tượng Phạm Ngũ Lão.

Hơn thế nữa, bà còn được nhân dân suy tôn là Quốc Mẫu, được tôn vinh trong một giá hầu đồng còn truyền tụng đến bây giờ. Tại giá hầu đồng này, công chúa mặc áo màu vàng, sau lưng giắt 1 thanh kiếm và 1 cờ hiệu. Khi nhập đồng, công chúa một tay cầm cờ, một tay cầm kiếm múa, rồi ban phát thánh dược cho các đệ tử. Đây là một bằng chứng dân gian rất thuyết phục về vai trò của bà đối với Dược Sơn.

Ngày nay, vào dịp lễ hội hằng năm, dân làng Dược Sơn vẫn tổ chức lễ rước bộ từ đền Nam Tào, Bắc Đẩu về đền Kiếp Bạc. Thôn Dược Sơn có khoảng 200 hộ, hiện còn nhiều người làm nghề thuốc…

NGUYỄN VĂN KHANG