Việt Nam chẩn đoán và điều trị thành công nhiều ca ung thư vú theo kỹ thuật mới
Y tế - Sức khỏe - Ngày đăng : 08:26, 30/04/2017
Ảnh minh hoạ: Internet
Kỹ thuật sinh thiết bằng định vị kim dây giúp chẩn đoán sớm các khối u chưa phát hiện được trên lâm sàng.
Về mô bệnh học và sinh học phân tử, BV K đã áp dụng những kỹ thuật mới nhất không chỉ để chẩn đoán bệnh chính xác mà còn phân loại chi tiết các thể bệnh học giúp cho từng bệnh nhân có phương pháp điều trị thích hợp nhất.
Các kỹ thuật chụp cắt lớp đa dãy, chụp cộng hưởng từ với từ lực cao, chụp xạ hình, PET-CT đã giúp đánh giá giai đoạn bệnh, đánh giá kết quả điều trị tốt hơn thay vì chỉ có X-quang thường và siêu âm ổ bụng như trước. Việc sinh thiết các vị trí di căn ở sâu cũng có thể được thực hiện nhờ các phương pháp hiện đại hỗ trợ.
“Trong phẫu thuật, với các bệnh nhân ở giai đoạn sớm, khối u nhỏ đã được phẫu thuật bảo tồn chỉ lấy rộng u thay vì cắt toàn bộ vú như trước đây. Đối với bệnh nhân có khối u lớn, không thể giữ được tuyến vú thì phẫu thuật tái tạo vú sẽ giúp bệnh nhân có được tâm lý tự tin sau điều trị. Kỹ thuật phát hiện và sinh thiết hạch gác (hạch cửa) giúp tránh được vét hạch nách ở các trường hợp chưa di căn hạch, hạn chế được các biến chứng tay to, đau, tê bì mà bệnh nhân phải chịu đựng trong nhiều năm”- Giám đốc BV K cho hay.
Sau các ca mổ, khi phải xạ trị thì các kỹ thuật điều biến liều (IMRT) làm giảm thiểu tác dụng có hại của xạ trị đối với các cơ quan lân cận như phổi, tim, xương sườn… Các máy xạ trị gia tốc với năng lượng cao cũng giúp giảm thời gian xạ trị, hạn chế các tác dụng phục của xạ trị.
Một thành tựu nữa trong công tác điều trị ung thư vú cũng được PGS, TS Trần Văn Thuấn chia sẻ, ngày nay các bệnh nhân ung thư vú có cơ hội sống lâu dài bởi các thuốc điều trị bệnh vô cùng phong phú. Các thuốc hóa chất, nội tiết, chống di căn xương mới nhất và hoạt tính chống u cao, tác dụng phụ thấp đều đã có mặt và được áp dụng tại BV K.
Đặc biệt, những năm gần đây, các thuốc điều trị đích trong đó có kháng thể đơn dòng trastuzumab (Herceptin) với khả năng tìm tế bào ung thư để tiêu diệt, hạn chế ảnh hưởng đến tế bào lành đã được ứng dụng trong điều trị. Các thuốc chống nôn, thuốc kích thích bạch cầu thế hệ mới đã hỗ trợ tích cực cho các phương pháp điều trị chính, giúp bệnh nhân vượt qua được các tác dụng phụ của điều trị.
“Nhờ áp dụng nhữngg thành tựu mới trong chẩn đoán và điều trị, hiện nay nhiều bệnh nhân ung thư vú được phát hiện ở giai đoạn sớm với tỷ lệ sống trên 5 năm tới 85,6% so với tỷ lệ 67,7% ở những năm 1990 tại BV K”- PGS, TS Trần Văn Thuấn thông tin.
Theo Tiền phong